Hệ thống giáo dục Việt Nam cũng như của các xứ trên thế giới được chia thành 3 bậc, mỗi bậc chia thành 2 hay 3 cấp:
1. Bậc tiểu học (sơ cấp & bổ túc) = enseignement primaire = primary education
2. Bậc trung học (cấp 1 & cấp 2) = enseignement secondaire = secondary education
3. Bậc đại học (cử nhân/ kỹ sư, cao học & tiến sĩ) = enseignement tertiaire (superieur) = tertiary education.
Dưới đây tôi sẽ nhắc lại đại thể hệ thống giáo dục đại học Miền Nam trước 30-4-1975 để nhớ lại thời còn ngồi ở ghế nhà trường mà nay tóc đã bạc và cũng để ghi công sức của những bàn tay, khối óc đã góp phần phát triển nền giáo dục nước nhà.
TỔ CHỨC CĂN BẢN
Miền Nam trước 30-4-1975 không có Bộ Đại học. Trong ban lãnh đạo của bộ Giáo dục thường có một thứ trưởng đặc trách đại học. Công việc và trách nhiệm của vị nầy tương đối nhẹ - chủ yếu về chánh sách - vì các viện đại học đối với Bộ Giáo Dục là cơ quan ngoại vi (không trực thuộc mà cũng không tự trị; sẽ trở lại).
Viện đại học: một đơn vị tổng hợp (Uni-versity) gồm nhiều bộ phận gọi là:
Phân khoa đại học (Faculté, ngắn gọn là Khoa), thí dụ: Viện Đại học Sai-gon gồm nhiều phân khoa như Y khoa = Faculté de Médecine,…; hay còn gọi là:
Trường đại hoc (College, School), thí dụ: Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức gồm có 7 trường đại học như trường đại học Cao cấp = College of Graduate Studies....
Ngành học (departement = department): mỗi phân khoa/ trường có nhiều ngành; trường đại học Kỹ thuật dạy nhiều ngành, ngành Công chánh, ngành Công nghệ, v.v…
Ban (section?): mỗi ngành có thể gồm nhiều ban. Phân khoa đại học Sư Phạm Saigon gồm 2 ngành: Văn và Khoa học. Ngành Văn phân ra làm 5 ban: ban Triết, ban Việt Hán, ban Sử Địa, ban Anh văn, và ban Pháp văn; về sau ban Triết chuyển đi và nhập vào Viện đại học Đàlat (thông thường cấp ban là tổ chức nội bộ)
Trung tâm chuyên môn: trong phạm vi mỗi viện đại học còn có một số trung tâm chuyên môn (tùy theo nhu cầu): nghiên cứu, ngoại ngữ, sinh viên vụ, v.v…
Chức vụ: Đứng đầu một viện đại học là viện trưởng (recteur = university president), đứng đầu một phân khoa / trường đại học là khoa trưởng (doyen = dean), và đứng đầu mỗi ngành có giám đốc ngành hay trưởng ngành (chef de departement = department head). Các chức vụ trên do hành pháp bổ nhiệm (thường theo đề nghị của Viện Trưởng)
Các viện đại học công lập VNCH không có Hội đồng Quản trị (Board of Trustees/ of Governors) như ở Mỹ vì là cơ quan ngoại vi của bộ Giáo Dục, nhưng có Hội đồng Khoa, Hội đồng Viện để quyết định về điều hành nội bộ.
Tự trị đại học: Đại học Mỹ có quyền tự trị. Đại học Miền Nam trước 1975 chỉ được bán tự trị (theo tôi nghĩ). Về học vụ và điều hành thì các cơ sở đại học được tự trị; các hội đồng khoa và hội đồng viện có quyền thảo luận và quyết định, không phải trình báo hay xin chĩ thị gì cả. Nhưng về tài chánh thì không. Thật vậy, các viện đại học có chương mục ngân sách riêng, nhưng mỗi chương mục ngân sách riêng là một bộ phận của ngân sách bộ GD (ngân sách bộ GD lại là một bộ phận của ngân sách Quốc gia) phải được Quốc hội chấp thuận. Mỗi chi tiêu phải qua thủ tục “kiểm soát ước chi” do bộ Tài chánh thi hành để kiểm soát. Ngoài ra, nhân viên hành chánh các cấp và nhân viên giảng huấn các ngạch là “công chức” quốc gia. Tân tuyển, cải ngạch, thăng trật, bổ nhiệm,… phải qua thủ tục “chiếu hội công vụ” do phủ Tổng ủy Công vụ thi hành để kiểm soát. Tóm lại, hoạt động của cơ quan công quyền thời VNCH trong đó có cả viện đại học thường phải theo “thể lệ hành chánh và tài chánh hiện hành”. Nói thế chứ tiến trình chiếu hội, kiểm soát khá nhanh.
Mỗi năm sinh viên chỉ đóng tiền ghi danh học và tiền ghi danh dự thi, tiền xử dụng phòng thí nghiệm. Sinh viên đại học Sư phạm lại được hưởng trợ cấp hàng tháng. Tiền đâu để cơ quan đại học điều hành và phát triển, để trả lương nhân viên mà nói đến tự trị đại học (như ở Mỹ). Năm 1974 Thủ tướng chánh phủ VNCH có ký Nghị định cho thành lập Quỹ Phát Triển Đại Học, tiền quỷ sẽ là tiền học phí do sinh viên đóng. Bộ GD có yêu cầu các đại học đem ra thảo luận. Tôi đề nghị tạm ngưng. Vùng II đang di tản, sinh viên biết việc thu học phí sẽ gây rối, bọn nằm vùng sẽ thừa cơ hội. Giặc ngoài, loạn trong, thì…chết!
HỌC VỤ
Giáo dục đại học ở Miền Nam có 3 cấp và 2 hướng, với nhiều loại bằng cấp. Đầu vào là bằng Tú tài toàn phần hoặc bằng tú tài toàn phần và thi tuyển.
Cấp 1 (học 4 năm, học 3 năm trước 1967 - 1968?; undergraduate Mỹ): nếu theo hướng đại cương thì sau 4 năm học thành công lấy bằng cử nhân như cử nhân Triết, cử nhân Toán, v.v…; nếu theo hướng chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp như tốt nghiệp ĐHSP, tốt nghiệp QGHC, v.v… và Kỹ sư như kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông, v.v… (License = Bachelor’s degree của Mỹ)
Cấp 2 (học thêm 1-2 năm;graduate Mỹ): thi lấy bằng Cao học (Maitrise = Master’s degree)…
Cấp 3 (học thêm 2-3 năm;graduate Mỹ): làm luận án thi lấy bằng Tiến sĩ (docteur d’Etat, Ph.D của Mỹ)
Ngành Y, vì có thực tập bệnh viện nên sau khi đã học xong lớp dự bị (hoặc PCB/ SPCN) phải học liền 6 năm hay hơn mới hết chương trình huấn luyện, trình luận án lấy bằng Bác sĩ (Tiến sĩ Y khoa).
Ngành Dược và ngành Nha có 2 cấp:
cấp 1, học (1 + 4) năm, bằng tốt nghiệp Dược Sĩ hay Nha Sĩ (Ghi chú: ngày nay, sinh viên - đh-xhcn - học 5 năm lấy bằng thạc sĩ như MBA Mỹ gọi là ‘Thạc sĩ Quản trị’. Trước 30-4-75, các giáo sư thạc sĩ Y khoa, Kinh tế, Luật khoa đều có bằng tiến sĩ trước khi dự thi thạc sĩ (tại Pháp)
cấp 2, học thêm 2 năm (mới mở), bằng tiến sĩ (chưa có sinh viên tiến sĩ ra trường).
Chương trình học (curriculum) tại nhiều phân khoa theo hướng kỹ thuật & chuyên nghiệp được xếp theo năm -- năm thứ 1, thứ 2,…-- với các môn học được ấn định trước. Cuối năm sinh viên phải thi cuối khóa: đỗ thì lên lớp trên, hỏng thì học lại lớp vừa qua hoặc bị nghĩ học (tiếng lóng là “ra ngang hông” = sortie laterale). Tại các phân khoa theo hướng đại cương như Văn khoa, Khoa học hệ thống Chứng chỉ (certificats) được áp dụng cho từng ngành học; các chứng chỉ - nếu thi đỗ - được tồn trử để lập thành Văn bằng cuối cấp học.Hệ thống Tín chỉ (credit hours) được đưa ra thảo luận nhưng chưa áp dụng rộng rải.
MẠNG LƯỚI ĐẠI HỌC
Đại Học Công Lập
Thời kỳ “Phi cao đẳng bất thành phu phụ”
Dưới thời Pháp thuộc, ba xứ Việt-Miên-Lào gọi là Liên bang Đông Dương có một cơ quan giáo dục đại học, đó là Viện Đại học Đông Dương (Université Indochinoise) đặt tại Hà nội. Văn kiện thành lập được Toàn quyền ĐD ký tháng 5 năm 1906 nhưng Viện Đại học Đông Dương chỉ thực sự hoạt động từ sau năm 1917, với nhiều sửa đổi trong quá trình cải tiến.
Các gia đình giàu có ở miền Nam thường gởi con em sang Pháp học đại học; còn những gia đình khá giả cho con em ra Hà-nội học tại một trong các trường sau đây:
1. Trường Y Dược (Ecole de Médecine et de Pharmacie)
2. Trường Luật (Ecole de Droit).
3. Trường Cao đẳng Sư phạm (Ecole de Pedagogie)
4. Trường Thú y (Ecole Vétérininaire)
5. Trường Cao đẳng Công chánh (Ecole des Travaux publics)
6. Trường Cao đẳng Canh nông (Ecole Supérieure d'Agriculture)
7. Trường Cao đẳng Thương mãi (Ecole Supérieure de Commerce)
Đại học cấp Quốc gia
Viện Đại học Sai-gon
Tôi chỉ biết trước 1954 ở Saigon có đại học Y Dược, cơ sở hành chánh đặt tại đường Testard sau là đường Trần Quý Cáp. Sau hiệp định Genève 1954, đất nước chia đôi. Một số đông sinh viên và phần lớn ban giảng huấn Viện Đại học Đông Dương di cư vào Nam, phối hợp tổ chức với các trường hiện hửu tại Saigon để thành lập Viện Đại học Quốc gia Việt Nam, sau đổi tên là Viện Đại học Sai-Gon (11–5–1955). Viện Đại học Sai-Gon vào những năm 1970 có 8 phân khoa sau đây:
Y khoa, Dược khoa, Nha khoa (Răng Hàm Mặt),
Sư phạm, Văn khoa, Khoa học, Luật khoa,
Kiến trúc.
Ngoài ra, Viện còn có Trung tâm Sinh ngữ, trường Sư phạm kiểu mẫu Thủ Đức, cư xá Minh Mạng cho nam sinh viên, cư xá (đường) Trần Quy Cáp cho nữ sinh viên.
Viện Đại học Huế
Huế là cố đô của Việt Nam (thời nhà Nguyễn), là một trong những trung tâm văn hoá truyền thống của quê huơng ta. Quốc tử giám Huế ra đời năm 1803 là cơ sở giáo dục đại học đầu tiên ở Huế.
Được thành lập tháng 3 năm 1957 do Sắc lệnh của Tổng thống VNCH-I, viện Đại học Huế gồm 4 phân khoa đại học: Sư phạm, Y khoa, Văn khoa, Luật khoa; và một số trường chuyên môn phụ thuộc: Cao đẳng Mỹ thuật, Viện Hán học, Nữ hộ sinh quốc gia và Trường cán sự Y tế và Điều dưỡng.
Viện Đại học Huế đã chia xẻ bao nỗi thăng trầm của vận nước: Huế thầm lặng, Huế xuống đường, Huế hổn loạn, nhưng Huế chổi dậy. Viện Đại học Huế đã đào tạo được nhiều giáo sư, bác sĩ, chuyên viên cần thiết cho công cuộc phát triển kinh tế-xã hội miền Trung Việt Nam.
Viện Đại học Cần Thơ (1966 - 1975)
Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng có tiềm năng về nông sản và thủy sản, cá tôm cua đầy đồng. Cần Thơ được gọi là Tây đô (thủ đô miền Tây) đóng vai trò đầu tàu trong việc phát triển kinh tế, văn hoá-xã hội của vùng. Sinh viên miền Tây hiếu học nhưng không đủ khả năng tài chánh đi học xa nhà; phụ huynh mong muốn con em có nơi học hành để có cơ hội tiến thân.Viện Đại học Cần Thơ được thành lập để đáp ứng các nhu cầu khẩn thiết của xả hội.
Được thành lập ngày 31-03-66 do Nghị định của Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (thủ tướng), Viện Đại học Cần Thơ có bốn khoa: Khoa học, Văn khoa, Luật khoa và Khoa học Xã hội, Sư phạm (có Trường Trung học Kiểu mẫu). Ngoài ra, còn có trường Cao đẳng Nông nghiệp đào tạo hệ kỹ sư và Trung tâm Sinh ngữ. Cơ sở vật chất của Viện gồm có khu hành chánh, học khu, thư viện, lưu trú xá nữ sinh viên, trường Trung học Kiểu mẫu, và Trường Cao đẳng Nông nghiệp.
Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (ViệnĐHBKTĐ = Thủ Đức Polytechnic University)
Để chuẩn bị cho giai đoạn tái thiết nước nhà, việnĐHBKTĐ được thành lập do Sắc lệnh của Tổng Thống VNCH-II và đi vào hoạt động đầu năm 1974. Đây là viện đại học cấp quốc gia (university), chuyên về khoa học, kỹ thuật (polytechnic), có khu đại học = campus rộng khoảng 600 hec-ta tại quận Thủ Đức, cạnh xa lộ Biên hòa và xa lộ Đại Hàn (trước 1975, các cơ sở của Viện còn nằm rải rác đó đây). ViệnĐHBKTĐ là cơ quan mới mà củ: mới vì mới có Sắc lệnh thành lập, củ vì một số trường đã hoạt động từ lâu nay nhập vào viện. Viện có 7 trường gồm 3 trường củ và 4 trường mới:
1. Trường Đại học Kỹ thuật (củ): (29/6/1957) Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ gồm bốn ngành Cao đẳng Công chánh, Cao đẳng Điện lực, Kỹ sư Công nghệ, và Việt Nam Hàng hải; về sau có thêm Trường Cao đẳng Hóa học -> (1972) Học viện Quốc gia Kỹ thuật -> (1974) Trường Đại học Kỹ thuật; [ghi chú: -> đổi tên]
2. Trường Đại học Nông nghiệp (củ): (1955) Trung tâm Quốc gia Nông Lâm Súc -> (1972) Học viện Quốc gia Nông nghiệp -> (1974) Trường Đại học Nông nghiệp;
3. Trường Đại học Giáo dục Kỹ thuật (củ): Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật -> (1974) Trường Đại học Giáo dục Kỹ thuật;
4. Trường Đại học Kinh Thương = Kinh tế Thương mại (mới)
5. Trường Đại học Khoa học Căn bản (mới)
6. Trường Đại học Thiết kế Thị Thôn (mới)
7. Trường Đại học Cao cấp = College of Graduate Studies (mới): sau khi đỗ bằng Cử nhân hay kỹ sư sinh viên có thể tiếp tục học lên để thi lấy bằng Cao học và Tiến sĩ. Năm 1974 ngành Công chánh đã thành lập Ban Cao học.
Là thiếu sót nếu không đề cập đến Học viện Quốc gia Hành chánh và Trường Võ Bị Quốc gia Đà lạt. Hai trường cũng thuộc hệ giáo dục 4 năm, thuộc hai Bộ khác.
Học viện Quốc gia Hành chánh (thuộc Phủ Thủ tướng)
Học Viện Quốc gia Hành chánhđược thành lập ngày 29-5-1950 theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ QGVN với mục đích đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chánh các cấp từ Trung ương đến địa phương và chuyên viên các nghành thuế vụ, ngoai giao. Trước tiên Học viện đặt tại Đà lạt, sau dời về Sai-gon trên đường Alexandre de Rhode, và từ năm 1958 trụ tại đường Trần Quốc Toản trong một cơ sở rộng lớn. Từ năm 1967, Học viện Quốc gia Hành chánh mở thêm ban Cao học với học trình là 2 năm.
Trường Võ Bị Quốc gia (tại Đà lạt, thuộc Bộ Quốc phòng)
Tại trường Võ bị Quốc gia, từ khóa 22B (năm 1965) chương trình học là 4 năm. Sinh viên Sĩ quan học “môn chính” là Võ khoa và “môn phụ” gồm Toán, Khoa học Tự nhiên và Khoa học Xả hội. Năm 1972, Chỉ huy trưởng trường có mời phái đoàn Bộ Giáo Dục gồm Tổng trưởng, Thứ trưởng đặc trách Đại học, và các Viện trưởng đại học đến viếng trường và thảo luận về bằng tốt nghiệp trường Võ bị. Ông đề nghị bằng tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia được xem tương đương bằng Cử nhân. Phái đoàn GD có ý kiến là trường Võ bị có thể gọi bằng tốt nghiệp của trường là Cử nhân Võ khoa, một ngành học như mọi nghành khác.. Nhưng quyền lợi xuất phát từ bằng Cử nhân Võ khoa không thuộc thẩm quyền Bộ Giáo Dục. Về sau bằng tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia với chương trình 4 năm được gọi là “Cử nhân Khoa học Ứng dụng”.
Ghi chú: Còn một số trường chuyên nghiệp có quy chế riêng, đầu vào là Tú tài I và thi tuyển, học 2 - 3 năm, đào tạo chuyên viên trung cấp như Trường Cán sự Bưu điện thuộc bộ Bưu điện & Viễn thông, trường Cán sự Điều dưởng, trường Nữ hộ sinh quốc gia thuộc bộ Y tế, Viện Quốc gia Âm nhạc và trường Mỹ thuật (Gia định) thuộc bộ VHGD&TN, v.v…Thời chưa có “đại học chánh quy” các trường trên thuộc hệ cao đẳng, là thành phần của đại học (nhận xét riêng).
Đại học Cộng đồng cấp Địa phương
Trên đây là các hệ đào tạo dài hạn. Cạnh đó còn có hệ đào tạo ngắn hạn, "mang kiến thức và chuyên môn tới công đồng", một số học viên có thể là người lớn, người đang làm việc.
Đại học cộng đồng là trường đại học 2 năm (cao đẳng), chương trình học gồm những môn thực dụng nhằm cung cấp kiến thức và cải tiên khả năng cho học viên, giúp tăng năng xuất trong lao động. Thời khóa biểu linh độngđể thích hợp với giờ giấc những công nhân muốn đi học. Sinh viên ra trường sẽ được cấp bằng tốt nghiệp (Associate’s degree, Mỹ) hay giấy chứng nhận dự khoá học (Certificate of Completion) tùy chương trình theo học. Bằng tốt nghiệp có thể được các đại học cấp quốc gia cứu xét để cho học lên cao. Nếu muốn học lấy bằng thì đầu vô là bằng Tú tài. Nếu muốn dự các khóa huấn luyện nghề nghiệp thì bằng Tú tài không là yêu cầu. Trước 1975, Miền Nam có 4 đại học cộng đồng:
Đại học Cộng đồng Quảng Đà
Đại học Cộng đồng Nha Trang
Đại học Cộng đồng Tiền giang/ Mỹ Tho
Đại học Cộng đồng Long Hồ/ Vĩnh Long
[Đại học Cộng đồng Ban Mê Thuột (chưa thành hình)]
ĐẠI HỌC TƯ THỤC
Trước 1975, đa số các Viện/ Trường Đại học Tư thục do các đoàn thể tôn giáo sáng lập.
Viện Đại học Đà lạt: thành lập năm 1958, gồm có một số phân khoa như: Chính trị Kinh doanh, Sư phạm (Triết và Pháp văn), Văn khoa
Viện Đại học Vạn Hạnh: thành lập năm 1964, gồm có 4 phân khoa: Phật Học, Văn học & Khoa học Nhân văn, Khoa học Xã hội, Giáo dục, Khoa học Ứng dụng, và Trung tâm Ngôn ngữ.
Viện Đại học Minh Đức: thành lập năm 1970, gồm có 4 phân khoa: Y khoa, Kinh thương, Khoa học Kỹ thuật, và Kỹ thuật Canh nông
Đại học Tây Ninh: cơ sở đặt tại toà thánh Tây Ninh, gồm có: Khoa Sư phạm, Văn khoa, Nông Lâm Súc
Đại học An Giang
Các sư huynh dòng La-san Taberd có xin phép mở trường đại học đào tạo kỹ sư ngành Dầu khí. Cơ sở đặc tại trường La-san Taberd, 53 Nguyễn Du.
PHẦN KẾT
Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ Pháp chấm dứt với hiệp định Genève 1954. Nhà nhà lo ổn định cuộc sống. Trẻ em nô nức đến trường, phụ huynh ước mong con em học hành thành đạt để thoát khỏi cảnh nghèo dốt. Có sự bùng nổ trong ngành Quốc gia Giáo dục. Với phương tiện eo hẹp, chánh quyền đương thời đã cố gắng đáp ứng nhu cầu học tập của giới trẻ, buổi đầu ưu tiên dành cho bậc tiểu và trung học. Về sau, bậc trung học dội mạnh lên đại học. Ngoài số thanh niên tốt nghiệp trung học mặc chiến y, một số khác được hoản dịch vì lý do học vấn tiếp tục lên học đại học. Sự phát triển về giáo dục đại học như tôi đã vẽ lại với vài chấm phết nêu trên, chắc chắn có sai sót, xin miễn chắp. Một miền đất nước với gần 20 triệu dân trong hoàn cảnh chiến tranh dử dội có một hệ thống giáo dục đại học như thế, dù chưa đầy đủ cũng cho thấy một cố gắng đáng kể và thành quả cụ thể để dành lại cho mai sau.