Giáo dục của Việt Nam trước năm 1975 là nền giáo dục Việt Nam
dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Triết lý giáo dục của Việt
Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng.
Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa nhấn mạnh
quyền tự do giáo dục, và cho rằng "nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng
bách và miễn phí", "nền giáo dục đại học được tự trị", và
"những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo
đuổi học vấn". Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng hòa gồm tiểu học, trung
học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập,
và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị
từ trung ương cho tới địa phương.
Tổng quan
Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam
đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Cao Miên.
Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học.
Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho
các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp
làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc
lập vào năm 1945, chương trình học của Việt
Nam - còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim) - được đem ra áp dụng ở miền
Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương
trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ nhất Cộng hòa thì chương trình Việt mới
được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà
lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của
mình.[3]
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ nhất Cộng hòa, những người làm công tác
giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc
gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu
giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang
thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.[4]
Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có
khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp
vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng
thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ
có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa có một phần năm (20%) dân số
là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao
gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh
viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số.[3]
Đến năm 1975, tổng
số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không
tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chánh và ở các
trường đại học cộng đồng).[5]
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng
nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường
xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho
quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng
13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã phát triển vượt bậc, đáp
ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người
có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo
được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được
là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách
nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn
vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây
dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý
tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam
Triết lý giáo dục
Năm 1958,
dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục
Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học
sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ
chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại
học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc "nhân bản" (humanistic),
"dân tộc" (nationalistic), và "khai phóng" (liberal)
được chính thức hóa ở hội nghị này.[6][7]
Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa, được ghi cụ thể trong tài
liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa (1967).
1. Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết lý nhân bản chủ
trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm
gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người
như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục
tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản
chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng
sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân
biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc... Với triết lý nhân bản, mọi
người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về
giáo dục.
2. Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá
trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề
nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay
những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần
phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan
biến trong những nền văn hóa khác.
3. Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc
không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo
dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế
giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại
để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ
tiếp cận với văn minh thế giới.[1]
Mục tiêu giáo dục
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đề ra những mục tiêu chính
sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả
lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên
người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và
nhân loại?
1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Trong tinh thần tôn
trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào
việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và
theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và
khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ
thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin
hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực để nhồi sọ học sinh
theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học
sinh. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội,
môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử
nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của
người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp
học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của
quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những
truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có
tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần
khoa học. Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc
độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán
đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh
thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.[1]
Giáo dục tiểu học và trung học
Bài chi tiết: Chương trình học
bậc tiểu học và trung học thời Việt Nam Cộng hòa và Các cơ sở trung và
tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học
|
|
trước 1967
|
sau 1967
|
lớp năm
|
lớp một
|
lớp tư
|
lớp hai
|
lớp ba
|
lớp ba
|
lớp nhì
|
lớp tư
|
lớp nhất
|
lớp năm
|
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp
|
|
lớp đệ thất
|
lớp sáu
|
lớp đệ lục
|
lớp bảy
|
lớp đệ ngũ
|
lớp tám
|
lớp đệ tứ
|
lớp chín
|
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp
|
|
lớp đệ tam
|
lớp mười
|
lớp đệ nhị
|
lớp 11
|
lớp đệ nhất
|
lớp 12
|
Giáo dục tiểu học
Số liệu giáo dục bậc tiểu học[8]
|
||
Niên học
|
Số học sinh
|
Số lớp học
|
1955
|
400.865
|
8.191
|
1963
|
1.450.679
|
30.123
|
1970
|
2.556.000
|
44.104
|
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến
lớp 5 (thời Đệ nhất Cộng hòa gọi là lớp Năm đến lớp
Nhất). Theo quy định của hiến pháp,
giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt
buộc).[9]
Từ thời Đệ nhất Cộng hòa đã có luật quy định trẻ
em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học.[10]
Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học "đúp",
tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh
tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia
ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu
học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi;[11]
5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn,
Vĩnh Long,
và Sa Đéc).[12]
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học.
Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học
trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học
tư thục.[13]
Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong
đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp
Công dân giáo dục).[14]
Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ
sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm
12-13 tiếng mỗi tuần.[15]
Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có
khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).[16]
Giáo dục trung học
Bài chi tiết: Hệ thống giáo dục
kỹ thuật thời Việt Nam Cộng hòa
Số liệu giáo dục bậc trung học[8]
|
||
Niên học
|
Số học sinh
|
Số lớp học
|
1955
|
51.465
|
890
|
1963
|
264.866
|
4.831
|
1970
|
623.000
|
9.069
|
Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng hòa có hơn 550.000 học sinh
trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18;[17]
có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long
và Sa Đéc).[12]
Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập.
Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Pétrus Ký,
Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long,
Lê Quý Đôn
(Sài Gòn), Quốc Học (Huế),
Nguyễn Đình Chiểu
(Mỹ Tho),
Phan Thanh Giản (Cần Thơ).
Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ
phí khác.
Trung học đệ nhất cấp
Trung học đệ nhất cấp bao gồm năm lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1967 gọi là lớp đệ thất
đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào
trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ (tỷ số vào
trường công là 62%),[18]
nên những ai không vào được thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả
học phí. Một năm học được chia thành hai "lục cá nguyệt" (hay
"học kỳ"). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường
là tiếng Anh
hay tiếng Pháp. Môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi
tuần.[19]
Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào
giảng dạy ở một số trường.[20]
Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt
tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp[21]
rồi đến niên học 1970-71 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học
đệ nhất cấp.[22]
Trung học đệ nhị cấp
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10 (đệ tam), 11 (đệ nhị) và 12 (đệ nhất),
tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung
học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn
học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học.[23]
Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là khoa học thực nghiệm hay
còn gọi là ban vạn vật; ban toán;
ban văn chương; và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn.
Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.[24]
Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một
đợt tú tài phổ thông. Phép thi
kể từ năm 1973
cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.[25]
Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 5 và tháng 7.[26]
Tỷ lệ đậu, Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%),[27]
khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành hạng
"ưu" (16/20 điểm trở lên), "bình" (14/20), "bình
thứ" (12/20), và "thứ" (10/20).[28]
Một số trường trung học đệ nhị cấp chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Pétrus Ký,
Chu Văn An, và Nguyễn Trãi
dành cho nam sinh và các trường Trưng Vương, Gia Long,
và Lê Văn Duyệt
chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: Nữ
sinh thì áo dài
trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu lam.[29]
Trung học tổng hợp
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh:
comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát
sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey, sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa
và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ.
Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp,
đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v...
nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh
sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà
giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi
mình sinh sống.[30]
Thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam chính phủ cho thử
nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với
nhau. Học trình này được áp dụng cho một số trường như Nguyễn An Ninh
(cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Anh
(cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng binh Lễ
ở Long Xuyên.[31]
Trung học kỹ thuật
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp
việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ
thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai
môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh
và tiếng Pháp.[32]
Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công
lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường
Cơ khí Á châu thành lập năm 1906
ở Sài Gòn; nay là Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng),[33]
tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco
thành lập năm 1957 ở Gia Định;
nay là Trường Đại học
Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh).[32][34]
Các trường tư thục và quốc gia nghĩa tử
Bài chi tiết: Hệ thống các trường Bồ đề và Hệ thống các
trường Quốc gia nghĩa tử
Các trường tư thục và Bồ đề
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục.
Tính đến năm 1975,
Việt Nam Cộng hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường
tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.[35]
Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent
des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế
giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo hội Công giáo. Trường Bác ái (Collège
Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng
do các thương hội người Hoa bảo trợ.[36]
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ đề
ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong
đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một
số trường do chính phủ Pháp
tài trợ như Marie-Curie,
Colette, và Saint-Exupéry.[37]
Kể từ năm 1956,
tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc
tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt
Nam.[38]
Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia
Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam, tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành
trường công (hầu hết mang tên mới).[39]
Các trường Quốc gia nghĩa tử
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng hòa
còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công
lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em
của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa như là một đặc
ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng.
Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng,
Cần Thơ,
Huế, và
Biên Hòa.
Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến
binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của
Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục phổ
thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự.[40][41]
Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường thiếu sinh quân. Sau năm
1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.
Giáo dục đại học
Số liệu giáo dục bậc đại học
|
|
Niên học
|
Số sinh viên
|
1960-61
|
11.708[42]
|
1974-75
|
166.475[43]
|
Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một
trong các viện đại học, trường đại học,
và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường
rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển; các trường này thường là
Y, Dược, Nha, Kỹ thuật,
và Sư phạm. Việc tuyển chọn dựa trên khả năng
của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các
cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân
khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra,
chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.[13]
Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học
được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học,
v.v.. thì lấy bằng cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân
Toán...); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng tốt nghiệp (ví dụ:
bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành
chánh...) hay bằng kỹ sư
(ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông...). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng
cao học
hay tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp:
docteur de troisième cycle; tương đương thạc sĩ
ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng tiến sĩ
(tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ). Riêng ngành y, vì phải có thời gian
thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học
thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.[44]
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học
Bài chi tiết: Đại học
Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học
Việt Nam thời Việt Nam Cộng hòa được tổ chức theo mô hình viện đại học
(theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức: Viện=Nơi, sở).
Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ
và Tây Âu,
cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh:
credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng Anh:
faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân
khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v...) hoặc trường hay trường đại
học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại
học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v...). Trong mỗi phân khoa đại học
hay trường đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh,
v.v...); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh:
department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).[45]
Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị hòa bình đang diễn ra ở Paris, chính
phủ Việt Nam Cộng hòa ráo riết lên kế hoạch tái
thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một
chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được
đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình
cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường
đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.[46]
Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành;
sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang
kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được
thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa,
xã hội,
và kinh tế.
Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu
của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó
được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học
Southern California vào năm 1970 với tựa đề The
Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction
in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của
nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam). Cơ sở đầu tiên được hình
thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình
bày sâu rộng trong dân chúng.[46]
Vào năm 1973, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh:
Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được
thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú
trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ
Đức có các trường đại học chuyên về Nông nghiệp,
Kỹ thuật,
Giáo dục,
Khoa học
và Nhân văn, Kinh tế
và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo
sau đại học. Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một
khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một
cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung
để tăng hiệu năng và giảm chi phí.[46]
Sau năm 1975,
dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục
đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo
dục của Liên Xô
nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện
đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập.[47]
Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học.[48]
Các "trường đại học bách khoa" được thành lập dưới hai chính thể này
(Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học
Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, và Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng)
không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các
ngành kỹ thuật. Tương tự, mô hình "trường đại học tổng
hợp" (Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Trường Đại học
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, và Trường Đại học
Tổng hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học
cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện. Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 "đại học" cấp quốc gia và 3
"đại học" cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học.[49]
Vào tháng 10 năm 2009,
một số đại biểu của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam đưa ra đề nghị gọi tên các "đại học" cấp quốc gia và cấp vùng là
"viện đại học".[50]
Các viện đại học công lập
- Viện Đại học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại học Quốc gia Việt Nam (1955) - còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955.[51] Riêng Trường Đại học Y khoa dùng cả tiếng Anh.
- Viện Đại học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.[52]
- Viện Đại học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.
- Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
Các viện đại học tư thục
Sinh viên ở Học viện Quốc gia Hành chánh, đường
Alexandre de Rhodes, Sài Gòn
- Viện Đại học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.[53]
- Viện Đại học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật học, Khoa học xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinh viên.[54][55]
- Viện Đại học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967, tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3 Tháng Hai), Quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng. Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.[54]
- Viện Đại học Hòa Hảo: Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm.[56] Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.
- Viện Đại học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo[57] ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm.[58][59] Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài.
- Viện Đại học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công giáo điều hành.
Các học viện và viện nghiên cứu
Bài chi tiết: Học viện Quốc gia Hành chánh, Học viện Quốc gia Nông nghiệp, và Viện Hải dương học Nha Trang
- Học viện Quốc gia Hành chánh: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn[60] đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3 tháng 2), Quận 10, Sài Gòn.[61][62] Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.[63]
- Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông lâm súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức năm 1974.
- Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, v.v... với những chuyên môn đặc biệt.[64]
Các trường đại học cộng đồng
Bài chi tiết: Trường đại học
cộng đồng
Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô
hình community college của Hoa Kỳ)
như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho,[65]
Duyên Hải ở Nha Trang,[66]
Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974),[67]
và Long Hồ ở Vĩnh Long.[46]
Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại
học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp.[66]
Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng
hòa bị giải tán.[68]
Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis
(khai giảng vào năm 1973)
dành riêng cho nữ sinh do Công giáo
thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.[66]
Các trường kỹ thuật và huấn nghệ
Bài chi tiết: Trường Quốc gia Nông lâm mục, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ,
Học viện Cảnh sát
Quốc gia (Việt Nam Cộng hòa), và Hệ thống giáo dục
kỹ thuật thời Việt Nam Cộng hòa
Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách
khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên
1970 được nâng lên tương đương với cấp đại học.
- Trường Quốc gia Nông lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B'lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc, vườn cây công nghiệp, lúa thóc.[69] Qua từng giai đoạn Trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông lâm súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.[70]
- Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng hòa gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm 1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức.[71][72]
- Học viện Cảnh sát Quốc gia: Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.[73]
Các trường nghệ thuật
Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ
đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn
tam), Vũ Văn Hòa (sáo), và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).
Bài chi tiết: Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ
và Trường Quốc gia Âm nhạc Huế
- Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ nhất Cộng hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điển Tây phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.[74]
- Trường Quốc gia Âm nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế,[75] chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam, dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh thành Huế làm nơi giảng dạy.[76]
- Trường Quốc gia Trang trí Mỹ thuật: thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).
- Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn: thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).
Tài liệu và dụng cụ giáo khoa
Truyện Kiều bản chữ Nôm
của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967
Năm 1958,
chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc
Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục
toàn quốc. Tính đến năm 1962,
Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học,
và 9 sách đại học.[77]
Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách
cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có
nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài
liệu tham khảo. Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do
Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một
số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO
để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn
hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục
cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.
Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ
Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm
nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn
hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.[78]
Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.
Nhà giáo
Đào tạo giáo chức
Trường Đại học Sư phạm thuộc Viện Đại học Sài Gòn
Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957)
là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958.[79]
Sau có thêm các trường cao đẳng sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An,
và Quy Nhơn[80]
Nha Trang,
Mỹ Tho,
Cần Thơ,
Long Xuyên.[81]
Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà
Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.[82]
Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với
chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này
nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp.[83]
Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.[84]
Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm
(2 hoặc 4 năm).[85]
Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng
nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt
nghiệp.[86]
Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư
phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo
dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục
và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ,
Nhật, Đức,
v.v...[82]
Đời sống và tinh thần giáo chức
Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc
hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học
đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470. Với mức lương căn bản như vậy, cộng
thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải
mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật
giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn
như Sài Gòn và Đà Nẵng.
Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô
phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn
đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính
quyền địa phương.[82]
Thi cử và đánh giá kết quả học tập
Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ
thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 1965-1966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi
trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban
soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm
các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học
sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi
trắc nghiệm cho thích hợp.[25]
Đầu những năm 1970,
Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn
bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển...
đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt
từ Hoa Kỳ,
và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được
chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này
được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng
điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn,
tính thứ hạng trúng tuyển v.v... Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm
group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để
tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.[25]
Tổ chức quản trị
Hệ thống quản trị giáo dục
Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, Bộ Quốc gia Giáo dục có
Tổng Nha Trung Tiểu học và Bình dân Giáo dục phụ trách giáo dục tiểu học và
trung học; đứng đầu là một Tổng Giám đốc. Tổng Nha này (văn phòng đặt tại số 7
đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn) bao gồm Nha Trung học, Nha Tiểu học,
Nha Tư thục, Sở Khảo thí, và Ban Thanh tra và Soạn Đề thi. Ở địa phương, mỗi
tỉnh có một Ty Tiểu học để quản lý tất cả các trường tiểu học trong tỉnh. Nhưng
các trường trung học ở Sài Gòn và ở các tỉnh lỵ và quận lỵ đều làm việc thẳng
với Nha Trung học ở Tổng Nha. Khi số trường trung học gia tăng quá nhiều thi
Nha Trung học hoạt động không còn hữu hiệu nữa. Ở tại các tỉnh, hiệu trưởng trường trung học tỉnh lỵ kiêm
luôn việc kiểm soát các trường bán công và tư thục khiến vị trí công việc này rất
nặng nề.[87]
Tháng 6 năm 1971,
dưới thời Đệ nhị Cộng hòa, Bộ Quốc gia Giáo dục mở rộng
thành Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên (VH-GD-TN). Cơ quan đầu não của Bộ bào
gồm: Một Tổng trưởng (ngày nay gọi là Bộ trưởng), một Thứ trưởng, và bốn Phụ tá
đặc biệt (ngang hàng thứ trưởng) đặc trách Trung Tiểu học và Bình dân Giáo dục,
Văn hóa, Thanh niên, và Kế hoạch. Điều hành văn phòng cơ quan đầu não có Đổng
lý văn phòng (chức vụ này bị bãi bỏ từ năm 1974), Chánh văn phòng của
Tổng trưởng, Chánh văn phòng của Thứ trưởng, Bí thư của Tổng trưởng, Bí thư của
Thứ trưởng, Tham chánh Văn phòng của Tổng trưởng, các Công cán Ủy viên của Tổng
trưởng, Thứ trưởng, Phụ tá đặc biệt, và một số Thanh tra đặc biệt tại Bộ.[87]
Tổng thư ký và Phó tổng thư ký của Bộ trông coi khối điều hành ở trung ương
với 13 nha, 1 sở, và 1 trung tâm: (1) Nha Sưu tầm và Nghiên cứu Giáo dục, (2)
Nha Kế hoạch và Pháp chế, (3) Nha Học chánh (tức là Quản trị Giáo dục), (4) Nha
Sinh hoạt Học đường, (5) Nha Sinh hoạt Văn hóa, (6) Nha Sinh hoạt Thanh niên,
(7) Nha Công tác Quốc tế, (8) Nha Sư phạm và Tu nghiệp, (9) Nha Khảo thí, (10)
Nha Y tế Học đường, (11) Nha Nhân viên, (12) Nha Tài chính, (13) Nha Tạo tác
(tức là Kiến thiết và Hậu cần), (14) Sở Văn thư, và (15) Trung tâm Học liệu.
Thanh Tra Đoàn được lập ở trung ương, bên cạnh khối điều hành của Tổng thư ký.
Tổng Nha Trung Tiểu học và Bình Dân Giáo dục được giải tán và tất cả các công
việc thuộc Tổng Nha được đưa về Bộ và nằm dưới sự điều hành trực tiếp của Phụ
tá đặc biệt đặc trách Trung Tiểu học và Bình Dân Giáo dục.[87]
Vào năm 1972,
Bộ VH-GD-TN thiết lập 4 Khu Học chánh để đại diện cho Bộ ở 4 vùng chiến thuật (quân khu) để đôn đốc, kiểm
soát và giúp đỡ công việc văn hóa, giáo dục, và thanh niên ở các tỉnh thuộc
phạm vi quân khu của mình. Đây là một cơ quan hoạt động rất hữu hiệu. Tuy nhiên
vì ngân sách eo hẹp và vì nhu cầu cải tổ công vụ trên toàn quốc nên Khu Học
chánh bị giải tán sau hơn một năm hoạt động. Tại mỗi tỉnh, Bộ VH-GD-TN cho
thiết lập một Sở Học chánh để phụ trách tất cả các công việc liên quan đến văn
hóa và giáo dục trong tỉnh; Ty Tiểu học được sáp nhập vào Sở Học chánh. Bộ
VH-GD-TN mong muốn rằng cơ quan học chánh ở mỗi tỉnh phải có địa vị quan trọng
và càng ít bị áp lực của địa phương càng tốt cho nên đã nâng cơ quan này lên
thành Sở. Tuy vậy, do tình hình đất nước, điều này không thể thực hiện được, và
công cuộc cải tổ công vụ toàn quốc đã đưa đến quyết định chuyển Sở Học chánh
thành Ty Văn hóa Giáo dục tại địa phương từ năm 1974. Trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa lúc này có 50 Ty Văn hóa Giáo
dục đặt tại 48 tỉnh lỵ và 2 thị xã.[87]
Về mặt ngân sách vào thời điểm năm 1961 thời Đệ nhất Cộng hòa với ngân sách quốc gia là
15.276 triệu đồng, chính phủ chi 811,4 triệu cho ngân
sách giáo dục; chính quyền địa phương góp 563,3 triệu đồng tính tổng cộng là
8,99% ngân sách quốc gia.[64]
Giáo dục là của những người làm giáo dục
Ở Việt Nam,
ngay từ thời xa xưa, giáo dục là của những người làm giáo dục. Các vương triều
của Việt Nam
thường chỉ vạch ra những đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo đó
là tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn người tài mà không trực tiếp can dự vào
hoạt động giảng dạy của các cơ sở giáo dục. Sang thời Pháp thuộc, người Pháp lập ra một nền giáo
dục mới, nhưng việc điều hành và soạn thảo chương trình vẫn được giao cho các
nhà giáo được huấn luyện chuyên môn, dù là người Pháp hay người Việt.[88]
Đặc điểm trên được tôn trọng trong suốt thời Quốc gia Việt Nam của Cựu hoàng Bảo Đại
và đặc biệt là thời Việt Nam Cộng hòa. Các chức vụ bộ trưởng hay
tổng trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người thuộc các
ngành khác đảm nhiệm, nhưng các chức vụ khác trong Bộ Giáo dục đều là những nhà
giáo chuyên nghiệp đảm trách (ngoài trừ một số chức vụ có tính chất chính trị
như đổng lý văn phòng, bí thư, v.v...). Họ là những người am hiểu công việc, có
kinh nghiệm, giàu tâm huyết, và xem chính trị chỉ là nhất thời, tương lai của
dân tộc mới quan trọng. Trong các cơ quan lập pháp, những người đứng đầu các ủy
ban hay tiểu ban giáo dục của Thượng viện và Hạ viện đều là những nghị sĩ quốc
hội xuất thân từ nhà giáo. Ngoại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc
phạm vi chính trị nhất thời đều phải ngưng lại trước ngưỡng cửa học đường.[88]
Riêng trong lĩnh vực giáo dục đại học, Điều 10 của Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa (1967) nêu rõ:
Nền giáo dục đại học được tự trị.[2]
Ở miền Nam trước 1975
không có "Bộ Đại học" cũng không có cơ quan chủ quản kiểu như Bộ Y tế
quản lý các trường đại học Y-Dược. Trong ban lãnh đạo của Bộ Quốc gia Giáo dục
của Việt Nam Cộng hòa có một thứ trưởng đặc trách giáo dục đại học.
Công việc của vị này chủ yếu là lo về chính sách chung vì các viện đại học là cơ
quan ngoại vi đối với Bộ ở trung ương. Về học vụ và điều hành, các cơ sở
giáo dục đại học được tự trị. Các hội đồng ở cấp viện đại học và cấp
trường đại học (hay phân khoa) có quyền thảo luận và quyết định mà không phải
trình báo hay xin chỉ thị từ bất cứ ai.[45]
Về mặt tài chính, tuy các viện đại học công lập có ngân sách
riêng nhưng đây là một phần của ngân sách chung thuộc ngân sách quốc gia và
phải được Quốc hội chấp thuận. Tất cả các chi tiêu phải qua thủ tục "chiếu
hội ngân sách" ("chiếu hội"=kiểm nhận) do Bộ Tài chính kiểm soát
và thực hiện. Ngoài ra, giảng viên và nhân viên là công chức quốc gia. Việc
tuyển mới, chuyển ngạch, bổ nhiệm, thăng chức, v.v... phải qua thủ tục "chiếu
hội công vụ" do Phủ Tổng ủy Công vụ thực hiện để kiểm soát. Trong thực tế,
thủ tục này được thực hiện một cách khá dễ dàng và nhanh chóng. Như vậy, về mặt
tài chính các viện đại học công lập ở miền Nam không được nhiều quyền tự trị
như các viện đại học ở Hoa Kỳ. Lý do của việc này là do các viện đại học này không
thu học phí của sinh viên, không có nguồn thu riêng.[45]
Các kỳ đại hội giáo dục quốc gia
- Đại hội Giáo dục Quốc gia lần I: tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958. Triết lý giáo dục nhân bản - dân tộc - khai phóng được chính thức hóa ở hội nghị này.[89]
- Đại hội Giáo dục Quốc gia lần II: tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1964. Đại hội này tái xác nhận ba nguyên tắc căn bản nhân bản - dân tộc - khai phóng và tổ chức lại hệ thống học đường nhấn mạnh đến sự học tập liên tục từ lớp 1 đến lớp 12.[89]
Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu
Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và
thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng
kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo
tiêu biểu:[90]
- Trần Hữu Thế: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 1995 tại Pháp; tiến sĩ khoa học (1952), từng dạy học ở Lyon (Pháp) và làm giáo sư ở Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn; từ 1958 đến 1960 làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục; từng làm Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế, số lượng học sinh, sinh viên gia tăng nhanh chóng, và nhiều cải tiến trong giáo dục đã được thực hiện. Cùng thời kỳ này, Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) được tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958 chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
- Nguyễn Văn Trường: sinh năm 1930 tại Vĩnh Long; giáo sư tại Viện Đại học Huế; hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người tích cực vận động và đóng góp vào sự ra đời của Viện Đại học Cần Thơ vào năm 1966.
- Trần Ngọc Ninh: sinh năm 1923 tại Hà Nội; bác sĩ giải phẫu và giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, giáo sư Văn minh Đại cương và Văn hóa Việt Nam tại Viện Đại học Vạn Hạnh; Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa.[91]
- Nguyễn Lưu Viên: sinh năm 1919; bác sĩ, từng làm việc tại Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, Bệnh viện Chợ Rẫy, và Viện Pasteur Sài Gòn; từ 1969 đến 1971 làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục rồi Phó thủ tướng kiêm Trưởng Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở Hội nghị La Celle Saint Cloud trong chính phủ Trần Thiện Khiêm.
- Ngô Khắc Tĩnh: sinh năm 1922 tại Phan Rang, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; dược sĩ (tốt nghiệp ở Pháp); từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên; từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Đỗ Bá Khê: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Southern California); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người đã thiết lập hệ thống các trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam và được xem là "cha đẻ của các trường đại học cộng đồng Việt Nam". Ông còn thiết lập Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức vào năm 1974 dựa theo mô hình của các viện đại học bách khoa ở California (Hoa Kỳ) và làm việc với vai trò viện trưởng sáng lập của viện đại học này.
- Nguyễn Thanh Liêm: sinh năm 1934 tại Mỹ Tho; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Iowa State, Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa.
Trợ giúp của quốc tế
Cuốn tập đọc song ngữ Việt-Kơho do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản năm
1959 với sự hợp tác của Phái bộ Kinh tế Hoa Kỳ
Những nỗ lực phát triển giáo dục của Việt Nam Cộng hòa nhận được sự trợ giúp của các
tổ chức quốc tế và nhiều nước trên thế giới. Một vài ví dụ có thể kể đến: UNESCO
giúp thiết lập một hệ thống các trường tiểu học cộng đồng. UNDP giúp đỡ trang thiết
bị cho Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ.
New Zealand
xây dựng các tòa nhà cho Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Pháp
cung cấp nhiều giáo sư, trang thiết bị, khoản tài trợ giúp phát triển nhân sự,
đặc biệt là trong lĩnh vực toán học
hiện đại. Cộng hòa Liên bang
Đức (Tây Đức) giúp xây dựng và cung cấp trang thiết bị cho một
trường trung học kỹ thuật, ngoài ra còn hỗ trợ Trường Đại học Y khoa của Viện Đại học Huế, v.v...[92]
Phần lớn sự trợ giúp đến từ Hoa Kỳ.
Trong đó có sự giúp đỡ trong việc ấn loát sách giáo khoa, xây dựng Trường Đại
học Sư phạm của Viện Đại học Sài Gòn và các trường sư phạm khác
ở các tỉnh, 11.000 phòng học trong các ấp chiến lược, 18 trường trung học kỹ thuật, một trung tâm y
khoa cho Viện Đại học Sài Gòn, một trường sư phạm và
cùng với nó là một trường trung học kiểu mẫu, một trường sư phạm kỹ thuật, một
trường đại học nông nghiệp, một trường đại học kỹ thuật, một trung tâm hành
chính cho viện đại học, v.v... Tất cả các chương trình này được thực hiện thông
qua các nhóm chuyên gia gồm các giáo sư, nhà quản trị, và sinh viên của các
viện đại học Hoa Kỳ.[92]
Đặc biệt,năm 1970 bộ quốc gia giáo dục của chính quyền Sài gòn đã được
trang bị máy chấm bài thi trắc nghiệm điện tử IBM thế hệ đầu của Mỹ.Đây là loại
máy mà đến năm 2004 bộ giáo dục và đào tạo nước Cộng Hòa XHCN Việt nam bắt đầu
sử dụng,chỉ khác là máy có thế hệ mới hơn.Điều này cho thấy nền giáo dục miền
nam trước 1975 đã có sự khách quan trong thi cử.
Chữ viết
Vào thời đó, chính tả tiếng Việt khác với bây giờ ít nhiều. Điểm khác biệt
gồm có việc dùng gạch nối "-" giữa các từ trong một từ kép, ví dụ như "ngân-hàng",
"Việt-Nam". Cách viết tên riêng thì có khi viết thành
"Nguyễn-văn-Mỗ" thay vì viết hoa mỗi chữ (Nguyễn Văn Mỗ). Những
khác biệt này không phải do chính quyền tạo ra hay chỉ mới xuất hiện vào thời
buổi đó mà đúng ra là tiếp nối cách viết từ thời tiền chiến.
Đánh giá
Lời đánh giá về nền giáo dục Việt Nam
dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa trên trang mạng
chính thức của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bình Định: "Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết,
đế quốc Mỹ đã thay chân Pháp, nhảy vào miền Nam Việt Nam. Mỹ-ngụy đã cố sử dụng
giáo dục làm công cụ xâm lược Việt Nam. Chúng đã gieo rắc trong học sinh, sinh
viên tư tưởng hoài nghi, mơ hồ, tư tưởng an phận, sợ Mỹ, phục Mỹ. Chúng phát
triển trong học sinh, sinh viên lối sống thực dụng, quay lưng với hiện tại, chấp
nhận cuộc sống vị kỷ ương hèn... Mặt khác, Mỹ-ngụy tìm mọi cách tiêu diệt nền
giáo dục cách mạng, tìm cách ngăn chặn, loại trừ những mầm mống cách mạng trong
nhà trường."[93]
Trong một giáo án về Lịch sử Giáo dục huyện Triệu Phong,
tỉnh Quảng Trị: "Giáo dục Mỹ-ngụy tuy có phát triển về số
lượng và có những cải cách nhất định, nhưng không thoát khỏi mục đích nô dịch,
thống trị."[94]
Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 (tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston,
giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường
trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những
chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất
với miền Nam. Theo tạp chí Science thì "Việc thống nhất trong
lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát
triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có
nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự
ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự
định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được
thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra." Theo Galston, các nhà
lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt
Nam) và Phạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan
tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật
và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng
hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh:
"the widespread educational emphasis on engineering and electronics and
the system of two-year, community colleges").[95]
Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh
viên Viện Đại học Đà Lạt,[96]
nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt
dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: "Tôi là con của
một cán bộ Việt Minh – tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng
sau đó tập kết ra miền Bắc [...] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch
của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến
nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa
nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục "xã hội chủ
nghĩa" (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho
nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học
hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính
độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng..."[97]
Giáo dục Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nền giáo dục Việt Nam
dưới chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nền giáo dục
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức có mặt từ năm 1945 nhưng đến năm 1946 vì phải sơ tán trước
cuộc phản công của Pháp nên mãi đến năm 1954 sau khi chính phủ Việt Minh
về tiếp thu thủ đô Hà Nội và tiếp quản các cơ cấu hành chánh, trong đó có Tổng
nha Học chính của Liên bang Đông Dương cũ, thì mới có cơ sở vững
vàng để thực hiện. Với chính thể mới, hệ thống giáo dục này tồn tại cho đến năm
1985 khi nền giáo dục hai
miền Nam Bắc thống nhất, dù rằng việc thống nhất chính trị giữa hai miền đã
diễn ra từ năm 1976.[1]
Một đặc điểm của giáo dục Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là có tính định hướng chính
trị và giáo dục được xem là một thành phần phục vụ quan điểm của nhà nước.[2]
Giáo dục tiểu học và trung học
Ngay từ năm 1946
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho áp dụng chương trình học của Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim) ở cấp tiểu học và trung học.
Năm 1950,
hai bậc này được quy hoạch lại tổng cộng có 11 lớp: tiểu học (cấp I), bốn năm;
trung học cơ sở (cấp II), ba năm; trung học phổ thông (cấp III), bốn năm. Năm 1956, chính quyền lại ra
nghị quyết cải tổ giáo dục phổ thông, rút lại còn 10 năm: tiểu học (cấp I), bốn
năm; trung học gồm cấp II và cấp III, mỗi cấp có ba năm.[2]
Xong năm lớp 10 học sinh thi lấy bằng trung học phổ thông.[1]
Nỗ lực của thập niên 1940 và 1950 cũng là phải xóa nạn mù chữ với sự đóng góp
của Nha Bình dân Học vụ.[3]
Giáo dục đại học
Bậc đại học thì vì lúc đầu phải sơ tán nên chủ yếu vẫn dùng chương
trình thời Pháp thuộc kể cả tiếng Pháp
để giảng dạy đến năm 1950 mới đổi sang tiếng Việt. Viện Đại học Đông Dương (tiếng Pháp:
Université Indochinoise) phải đóng cửa nhưng rồi tái khai giảng vào cuối
năm 1945 với tên mới: Trường Đại học
Quốc gia Việt Nam với hơn 1.100 sinh viên ghi danh. Lúc đó trường có
năm ban: Y khoa, Khoa học, Văn khoa, Chính trị xã hội, và Mỹ thuật.[4]
Trường này sau đó chuyển lên Việt Bắc
và được sắp xếp lại. Trường Đại học Luật bị bỏ hẳn, thay thế bởi Trường Đại học
Chính trị Xã hội, đến năm 1948 thì gọi là Trường Pháp chính. Trong khi đó Văn
khoa dạy thêm ngoại ngữ: Anh, Nga và Hoa.[2]
Sau khi trở về Hà Nội, Chính phủ ký nghị định ngày 6 tháng 3 năm 1956 tổ
chức lại cấp đại học và lập ra năm trường đại học: Bách khoa, Nông lâm, Sư
phạm, Tổng hợp (Văn khoa và Khoa học), và Y dược. Cũng kể từ đó giáo trình đại
học bỏ mô hình của Pháp và theo chương trình học của Liên Xô.[2]
Theo đó thì mỗi trường cũ đứng riêng thành trường độc lập. Bậc đại học của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian hơn 20 năm không cấp bằng tiến sĩ
nào nên sinh viên cần đào tạo kiến thức cao hơn thì phải đi du học ở Liên Xô
và Đông Âu.[1]
Vì quan niệm giáo dục phải phục vụ mục tiêu chính trị nên bất kể học ở
chuyên ngành nào, sinh viên đại học đều phải học triết học Mác-Lê và lý thuyết đấu tranh giai
cấp.[1]
Trong niên học năm 1975-76 thì lối học tập chính trị được đem áp dụng triệt để
ở miền Nam và cả năm học đó được dành cho "công tác chính trị tư
tưởng" cho các sinh viên và giảng viên.[5]
Các cơ sở giáo dục đại học
- Trường Đại học Y khoa Hà Nội: trước thuộc Viện Đại học Hà Nội nhưng theo nghị định năm 1956 thì tách riêng. Trường Y khoa bị cắt khỏi Bộ Giáo dục và chuyển sang Bộ Y tế và học trình rút bỏ từ bảy năm thành sáu năm, loại bỏ ngoại trú, nội trú và luận án. Ngoài ra Bộ Y tế mở một chương trình hai năm học bắt đầu từ năm 1960 ở Thanh Hóa, Nghệ An (Vinh), Nam Định, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hà Nam, Hà Đông và Phú Thọ để đào tạo hàng ngàn y sĩ trung cấp trong khi học trình bác sĩ y khoa rút xuống còn bốn năm. Việc này diễn ra được hai năm nhưng vì thấy không hiệu quả nên sau đó lại trở lại học trình sáu năm cho y khoa.[6]
- Trường Đại học Bách khoa Hà Nội: thành lập năm 1956 với bốn ngành, Cơ khí, Điện & Mỏ, Luyện kim & Hóa học, và Thực phẩm & Xây dựng.[7]
- Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội: thành lập năm 1956, tập trung vào các ngành khoa học cơ bản. Năm 1993, trường này sáp nhập với Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I và Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội để hình thành Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội: thành lập năm 1951, ban đầu với tên gọi Trường Đại học Sư phạm Khoa học (1951–1956), sau đó là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1956-1966), Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I (1966–1993), Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1993–1999) thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, và trở lại tên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào tháng 10 năm 1999.
- Trường Đại học Nông lâm Hà Nội: thành lập năm 1956. Các tên gọi khác: Học viện Nông Lâm (từ 1958), Trường Đại học Nông nghiệp (từ 1963), Trường Đại học Nông nghiệp I (từ 1967), và Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (từ 2007).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét