Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Những điều lý thú về các vị vua Việt Nam


Lịch sử Việt Nam trải hàng ngàn năm phát triển với hơn 100 đời vua nối nhau trị vì. Có nhiều câu chuyện kỳ thú, khó tin liên quan đến các vị vua nước Việt mà không mấy người biết được.
Trần Anh Tông bị ném vỡ đầu
Trần Anh Tông là vị vua thứ 4 của nhà Trần, ở ngôi 21 năm (1293 - 1314), được sử sách đánh giá là “khéo nối chí giữ nghiệp, cho nên đất nước được thái bình, chính trị tốt đẹp, văn vật, chế độ dần thịnh lên, cũng là bậc vua tốt của triều Trần” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Để tiếp cận với đời sống nhân dân, vua Trần Anh Tông thường đi vi hành và có lần ông đã bị ném vỡ đầu. Sử cho biết như sau: “Vua thích vi hành, cứ đêm đêm lại lên kiệu cùng với hơn chục thị vệ đi khắp trong kinh kỳ, gà gáy mới trở về cung. Có đêm ra đến quân phường bị bọn vô lại ném gạch trúng vào đầu vua. Người theo hầu thét lên: kiệu vua đấy; bọn chúng biết nhà vua mới tan chạy cả. Một hôm thượng hoàng thấy đầu vua có vết thương, vặn hỏi, vua cứ thú thực mà thưa. Thượng hoàng giận dữ hồi lâu” ( Đại Việt sử ký toàn thư).
Vua Tự Đức thi văn đỗ hạng... bét
Là người thông minh, giỏi văn, hay chữ nên hoàng đế thứ 4 của triều Nguyễn là Tự Đức rất tự cao tự đại mặc dù bề ngoài luôn tỏ ra khiêm tốn. Có lần vua nói: Trẫm không đi thi nhưng nếu đi thi nhất định trẫm sẽ đỗ Trạng nguyên.

Thấy mọi người không có vẻ tán đồng, Tự Đức liền nghĩ ra một cách, ông cùng một số vị đại khoa làm một bài luận rồi rọc phách gửi sang nhờ vua Thanh lập ban giám khảo chấm giúp. Tự tin nghĩ thế nào mình cũng đỗ đầu nhưng hoá ra bài văn của Tự Đức xếp cuối; trong bài của ông có lời phê rằng: “Bài này tỏ ra tác giả là một người học rộng, khí phách, không phải là người thường nhưng là người không có tài mấy!”.

Lý Nam Đế từng là một chú tiểu
Lý Nam Đế tên thật là Lý Bí (còn gọi là Lý Bôn) là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa năm Tân Dậu (541) lật đổ chính quyền đô hộ, xây dựng một chính quyền tự chủ của nhà nước Vạn Xuân, ông xưng đế và trở thành vị Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Lý Bí xuất thân trong một gia đình “đời đời là hào hữu”, cha là Lý Toản, tù trưởng bộ lạc, mẹ là Lê Thị Oánh, người Ái Châu (nay là Thanh Hóa). Là con độc nhất trong gia đình, từ nhỏ đã tỏ rõ là người thông minh, hiểu biết, thế nhưng ông sớm phải sống trong cảnh mồ côi, khi lên 5 tuổi thì cha mất, 7 tuổi mẹ lâm bệnh qua đời; Lý Bí được người chú ruột đón về nuôi dưỡng. Một hôm có vị thiền sư đến làm lễ tại ngôi chùa trong làng, tình cờ nhìn thấy Lý Bí. Ngắm dung mạo cậu bé khôi ngô, thiền sư biết là người sau này có thể làm lên sự nghiệp. Biết hoàn cảnh đáng thương của Lý Bí, thiền sư liền đến gặp người chú xin đem cậu bé về làm “con nuôi cửa Phật”. Từ đó Lý Bí trở thành chú tiểu, theo Pháp tổ thiền sư về chùa Linh Bảo ở đất Giang Xá (nay thuộc xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, Hà Nội).
Được vị thiền sư hết lòng dạy bảo, lại thông minh chăm chỉ nên qua hơn 10 năm đèn sách, rèn luyện, Lý Bí trở thành nhân vật thiên tư lỗi lạc, văn võ toàn tài. Mọi người ai cũng quý mến, tin phục, sau đó đồng lòng suy tôn ông lên làm thủ lĩnh địa phương và sau này, chú tiểu năm nào đã phất cờ đại nghĩa, lật đổ ách đô hộ gần 500 năm của Bắc triều, đặt những nền móng đầu tiên cho sự ra đời quốc gia phong kiến độc lập.

Vua đầu tiên nhận lỗi với thần dân

Vua Lý Cao Tông chính là người đầu tiên làm “thiên tử” thay trời hành đạo mà lại dũng cảm thừa nhận trước thần dân sai lầm của mình.
Dưới thời Lý Cao Tông, triều chính bắt đầu đi xuống, loạn lạc nổi lên khắp nơi. Sử chép: “Vua chơi bời không điều độ, hình chính không rõ ràng, giặc cướp như ong, đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy kém… Kinh Thi có câu: Bên trong mê sắc đẹp, bên ngoài mê săn bắn, ham rượu, thích nhạc, nhà cao tường đẹp, người nào phạm một trong các điều ấy tất phải diệt vong, mà vua thì phạm đủ các điều ấy, còn làm gì được…” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Đến mùa thu, tháng 8 năm Đinh Mão (1207), vua Lý Cao Tông thấy giặc cướp nổi lên như ong bèn hối lại lỗi xưa, nhân đó hạ chiếu nhận lỗi, bài chiếu viết rằng: “Trẫm còn bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu trùng, không biết được cảnh khó khăn của dân chúng, nghe lời bọn tiểu nhân mà gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã oán thì trẫm còn biết dựa vào ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi, cùng dân đổi mới. Ai có ruộng đất, sản nghiệp bị sung công sẽ được hoàn lại” (Đại Việt sử lược). Từ tù nhân trở thành hoàng đế
Câu chuyện lạ lùng này liên quan đến vua Lê Hiển Tông, vị hoàng đế thứ 26 của nhà Hậu Lê. Ông là con trai trưởng của Lê Thuần Tông, sinh năm Đinh Dậu (1717), mất năm Bính Ngọ (1786), thọ 69 tuổi. Lê Hiển Tông là một trong số những vị vua có tuổi thọ cao nhất và là vị vua thọ nhất triều Hậu Lê. Vị hoàng đế này cũng là một trong những người ở ngôi lâu nhất trong lịch sử Việt Nam và là người làm vua lâu nhất triều Hậu Lê.
Chuyện lên ngôi của Lê Hiển Tông chứa đựng nhiều yếu tố may mắn. Khi còn là hoàng tử, vì có người chú là hoàng thân Lê Duy Mật nổi binh đánh lại họ Trịnh nhằm khôi phục quyền lực cho vua Lê, do đó ông bị chúa Trịnh Giang nghi ngờ đem giam cầm ở nhà viên quan nội thị Hồng quận công.
Năm Canh Thân (1740) Trịnh Doanh lên ngôi chúa mới chuyển hoàng tử đến giam ở nhà cậu mình là Vũ Tất Thận. Đêm trước đó, Vũ Tất Thận “mơ thấy thiên tử tới nhà, cờ quạt phấp phới, nhã nhạc vang lừng, rõ ra cảnh tượng của đời thái bình” ( Hoàng Lê nhất thống chí). Sáng hôm sau thấy quân lính giải hoàng tử đến nhà, ông ta rất kinh ngạc cho là ứng vào giấc mộng của mình bèn kể lại với chúa. Trịnh Doanh thấy vậy cho là người có phúc lớn bèn đón hoàng tử về tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Cảnh Hưng.

Đôi mắt sáng như sao của vua Quang Trung
Vua Quang Trung sinh năm Quý Dậu (1753), hồi nhỏ có tên là Hồ Thơm, con thứ của ông Hồ Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng. Khi trưởng thành ông đổi họ Hồ sang họ Nguyễn và lấy tên là Nguyễn Văn Thơm, sau đó được thầy học đổi tên là Nguyễn Huệ, ngoài ra ông còn có các tên khác là Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Văn Huệ, Nguyễn Quang Bình… Các sách sử đều mô tả Quang Trung là người cao lớn, tóc quăn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối.
Đôi mắt lạ nhất của Quang Trung theo sách sử cho biết nó khiến nhiều người khi thấy thần sắc của ông “đều run sợ, hãi hùng… không một người nào dám nhìn thẳng vào mắt” ( Hoàng Lê nhất thống chí). Đôi mắt này được mô tả như sau: “đôi mắt lập lòe như ánh điện” (Đại Nam chính biên liệt truyện), “con mắt nhỏ nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu” (Tây Sơn thuật lược).

Vua Gia Long bị ngã lộn cổ xuống huyệt mộ
Cuộc đời vua Gia Long, vị hoàng đế khai sáng vương triều Nguyễn, có nhiều giai thoại kỳ lạ trong thời kỳ bôn ba gian khổ để mưu đồ phục quốc. Tuy nhiên một chuyện lạ có thật ít người biết, đó là chuyện vua đã bị ngã xuống huyệt mộ của mẹ mình là bà Hiếu Khang hoàng thái hậu vào tháng giêng năm Nhâm Thân (1812) và lạ hơn nữa là cách hành xử của quan lại trước cú ngã của vua. Sách Quốc sử di biên viết: “Trước đây sai Thị trung trực học sĩ Lê Quý Kiệt sửa sơn lăng; Quý Kiệt nói đào đến huyệt tất có đất ngũ sắc, rồi quả nhiên đúng, vua cho là lạ ngày càng khen thưởng. Đến lúc làm nhà bên mộ, mưa gió to, vua xảy chân ngã, quan lại đều sợ tản đi hết. Phò mã Trương Văn Minh đỡ vua dậy đưa ra khỏi huyệt”.

 Càng đi sâu vào sử cũ nước nhà, chúng ta càng khám phá thêm những điều kỳ thú về các vị vua, từ người ít tiếng tăm cho đến những người danh tiếng lẫy lừng mà cuộc đời tưởng chừng như đã rõ ràng nhiều chuyện.
Được làm vua nhờ... ăn vạ
Lý Cao Tông  (còn có tên là Long Trát) sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tị (1173) là người được truyền ngôi một cách may mắn nhất. Chuyện rằng ngôi Thái tử vốn thuộc về anh trai của Long Trát là Long Xưởng, nhưng do mắc nhiều khuyết điểm nên Long Xưởng bị phế làm dân và Lý Anh Tông chưa biết chọn ai thay vào ngôi vị thái tử.
Một hôm Lý Anh Tông đùa chơi với người con trai thứ sáu là Long Trát. Cậu bé 2 tuổi thấy vua cha đội mũ liền khóc đòi. Vua chưa kịp tháo mũ ra thì cậu khóc thét lên, lúc cầm được mũ rồi thì cười thích thú. Hành động của cậu bé được Lý Anh Tông cho đó là điềm lạ nên mới lập Long Trát làm Thái tử. Đến tháng 4 năm Ất Mùi (1175) sau khi vua mất, Thái tử lên kế vị ngôi báu, trở thành vị vua thứ 7 của triều Lý.

Vua đi chơi đêm bị cướp mất gươm, ấn
Vua bị cướp, mà vật bị cướp lại là biểu tượng của quyền lực tối cao là chuyện rất khó tin nhưng hoàn toàn có thật, được chính sử và nhiều tài liệu ghi lại.
Trần Dụ Tông là vị vua thứ 7 của nhà Trần, tên thật là Trần Hạo , làm vua 28 năm (1341-1369). Thời kỳ đầu ông chăm lo chính sự nhưng về sau lại lao vào ăn chơi sa đọa, ham mê tửu sắc làm triều chính suy vi, dân tình đói khổ, giặc giã nổi lên khắp nơi… Vì là người ham chơi nên Trần Dụ Tông hay đi thăm thú, ngoạn cảnh nhiều nơi. Vào một đêm mùa hạ, tháng 6 năm Bính Ngọ (1366), vua đi chơi ở hương Mễ Sở (nay thuộc Hưng Yên) đến canh ba mới trở về kinh, khi đến sông Chử Gia thì bị kẻ cướp chặn đường lấy mất cả gươm báu lẫn ấn báu.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Tháng 6, vua ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Thiếu úy Trần Ngô Lang ở hương Mễ Sở, đến canh ba mới về. Khi tới sông Chử Gia bị cướp mất ấn báu, gươm báu”. Một số tài liệu khác cũng chép tương tự, như Việt sử địa dư viết: “Trần Dụ Tông, niên hiệu Đại Trị năm thứ 9 (1366), vua đi chơi hương Mễ Sở, khi trở về đến bãi Chử Gia bị cướp, mất cả ấn báu và gươm báu”… Sau khi bị cướp, Trần Dụ Tông cho đó là điềm chẳng lành, khó mà sống lâu nên càng thả sức chơi bời, cơ nghiệp nhà Trần ngày càng suy thoái.

Được phong làm Thái tử khi cha chưa lên ngôi

Người được chọn vào ngôi vị Thái tử là người sẽ kế thừa ngôi báu sau này, nhưng trong lịch sử phong kiến Việt Nam có một trường hợp độc nhất vô nhị được cha phong làm Thái tử trong khi người cha đó chưa làm vua, đó là chuyện của Hồ Hán Thương.
Hồ Hán Thương là vị vua thứ 2 và cũng là vua cuối cùng của nhà Hồ. Triều đại nhà Hồ được thành lập vào tháng 3 năm Canh Thìn (1400) sau khi Hồ Qúy Ly cướp ngôi của cháu ngoại là Trần An (Trần Thiếu Đế), thế nhưng trước đó, vào tháng giêng cùng năm, khi chưa làm vua nhưng Hồ Quý Ly đã lập Hồ Hán Thương làm thái tử với ý định chọn người con thứ này nối nghiệp mình.


Vua đóng giả làm sư
Trong lịch sử Việt Nam có một số vị vua từ bỏ địa vị tôn quý để xuất gia tu hành, trở thành những vị sư như trường hợp của Trần Nhân Tông, Lý Huệ Tông…. Riêng vua Mạc Mậu Hợp cũng làm sư, nhưng không phải muốn “học đạo cứu đời” mà chỉ làm một ông sư giả để cứu mạng chính mình.
Năm Nhâm Thìn (1592) quân nhà Lê do Trịnh Tùng chỉ huy mở cuộc tổng phản công đánh ra bắc. Quân Mạc thua to. Vua Mạc Mậu Hợp kinh sợ bỏ chạy khỏi Thăng Long rồi trốn vào ngôi chùa Mô Khuê ở Phượng Nhãn (nay thuộc huyện Yên Dũng, Bắc Giang). Quân lính đi lùng bắt, được dân cho biết “ông sư giả” này đang ẩn trong chùa đã được 11 ngày rồi. Lính kéo vào chùa “thấy một ông sư ngồi xếp bằng gõ mõ liền hỏi, Mạc Mậu Hợp đáp: "Bần tăng tu hành từ hồi còn trẻ tuổi ở am mây này, chén muối đĩa rau hàng ngày trai dưỡng, thắp hương thờ Phật, công đức chuyên làm. Thấy nhà sư ăn nói hoạt bát khiêm tốn, quân lính biết ngay là Mạc Mậu Hợp liền bắt giữ” ( Đại Việt thông sử).
Sau đó Mạc Mậu Hợp bị đưa về Thăng Long treo sống 3 ngày, sau đó bị chém đầu tại bãi Bồ Đề (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội), thủ cấp bị đưa vào Thanh Hóa, hai mắt bị đóng rồi bêu ở ngoài chợ.

Lê Thần Tông phải lấy bác dâu làm vợ

Cuộc đời của Lê Thần Tông, ông vua thứ 17 của nhà Hậu Lê có rất nhiều điểm đặc biệt như hai lần làm vua, có nhiều con làm vua nhất, có vợ là người phương Tây, có con nuôi là người phương Tây… Trong số những chuyện lạ về vua, có chuyện ông phải lấy bác dâu làm vợ.
 Tháng 5 năm Canh Ngọ (1630) chúa Trịnh Tráng đem con gái là Trịnh Thị Ngọc Trúc gả cho Lê Thần Tông, ép lập làm Hoàng hậu. Điều đáng nói, đây lại là bác dâu của vua, bà là vợ Cường quận công Lê Trụ, bác họ của Lê Thần Tông và đã có 4 con với ông này. Sử chép: “Khi ấy, Lê Trụ bị giam trong ngục. Vương đem Ngọc Trúc gả cho vua, vua lấy vào cung” (Đại Việt sử ký toàn thư). Thấy trái với luân thường đạo lý, triều thần ra sức can ngăn nhưng ở thời xã hội đảo điên, vua chỉ là bù nhìn mà thôi nên Lê Thần Tông vẫn phải cam chịu mà nói rằng: “Xong việc thì thôi, lấy gượng vậy” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Minh Mạng bỏ trống ngôi Hoàng hậu vì giận vợ
Nhiều người lầm tưởng rằng vua Minh Mạng đặt ra lệ “Tứ bất” là không lập Hoàng hậu, không lập Thái tử, không phong lấy tể tướng, không lấy Trạng nguyên (có sách chép là không phong vương). Thế nhưng không hề có văn bản nào quy định về điều này.

Riêng về trường hợp không lập Hoàng hậu, không phải vì Minh Mạng lo ngại thế lực bên họ hàng của Hoàng hậu can thiệp vào chính sự, lũng loạn triều chính mà lý do là vì vua giận vợ. Sách Quốc sử di biên cho biết như sau: “Chính cung húy là Kiều, con gái Doanh tượng quan… Đệ nhị cung tên húy là Hinh, con gái Lê Tông Chất… Có lần vua hơi se mình, chính cung cùng đệ nhị cung cùng đi cầu đảo ở chùa Thiên Mạc. Nhị cung nói rằng: Nếu phải tội với trời thì không cầu đảo vào đâu được. Đến lúc vua khỏi, chính cung đem câu nói ấy tâu với vua. Vua giận lắm, cho nên ngôi hoàng hậu vẫn để trống, bàn mãi không quyết định được”.
Đinh Tiên Hoàng bị giết hại thế nào?
Sau khi dẹp được “loạn 12 sứ quân”, Đinh Tiên Hoàng, người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là Hoa Lư, Ninh Bình), lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Đinh.
Vào một đêm mùa đông của tháng 10 năm Kỷ Mão (979) Đinh Tiên Hoàng sau yến tiệc, say rượu nằm ngủ ngay giữa sân cung đình. Một viên quan hầu cận là Đỗ Thích vốn nuôi sẵn ý đồ thoán đoạt đã lẻn vào giết chết ông. Sử sách không cho biết rõ Đỗ Thích giết hại vua như thế nào mà chỉ chép ngắn gọn rằng: “Mùa đông, tháng 10, Chi hậu nội nhân là Đỗ Thích giết vua ở sân cung đình… Nhân vua ăn yến ban đêm, say nằm ở trong sân, Thích bèn giết, lại giết cả Nam Việt vương Liễn” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Theo dã sử và giai thoại ở Hoa Lư thì Đinh Tiên Hoàng bị đầu độc, trước đây Đỗ Thích xuất thân thấp hèn nhưng vì có công cứu vua thoát nạn trong một trận đánh thời dẹp loạn 12 sứ quân nên sau khi nên ngôi, Đinh Tiên Hoàng đã cho Đỗ Thích làm Chi hậu nội nhân lo việc phục vụ ăn nghỉ của vua. Vì biết Đinh Tiên Hoàng sinh thời thích ăn lòng lợn nên khi cho rằng thời cơ cướp ngôi đã đến, Đỗ Thích dâng lên vua một đĩa lòng lợn rất ngon có tẩm thuốc độc cực mạnh, vua ăn xong trúng độc mà mất. Chính vì câu chuyện này mà từ đó đến ngày nay, tại Hoa Lư, vào ngày giỗ Đinh Tiên Hoàng, khi mổ trâu, bò, dê, lợn làm lễ cúng, tất cả lòng đều bỏ đi, không dùng làm cỗ. Đó là tục kị nhắc đến món lòng tẩm thuốc độc đã làm hại vua.

Tên tục của một số vị vua
Theo quan niệm dân gian, tên tục là tên do cha mẹ đặt lúc mới sinh, chỉ gọi lúc còn bé, thường dùng từ Nôm xấu xí, tuy nhiên cũng có tên không phải là quá xấu. Sử liệu, dã sử cũng cho biết tên tục của một số vị vua nước ta.
Ví như Mai Hắc Đế tên hồi nhỏ là Phượng (một loài chim), vua Trần Thái Tông xuất thân từ gia đình làm nghề chài lưới nên có tên tục là Lành Canh (một loài cá), Lê Chiêu Tông có tên tục là Huệ (một loài hoa).
Khi sinh vua Lê Hy Tông, mẹ ông bị ghẻ lạnh. Bà phải về quê ngoại sống như dân thường, phải mò cua, bắt ốc, hến để kiếm sống và đã đặt tên con là Cáp (nghĩa là con hến), khi lên làm vua, Lê Duy Cáp mới đổi tên là Lê Duy Hiệp. Vua Quang Trung hồi nhỏ tên là Thơm (nghĩa là mùi hương) còn đối thủ của ông sau này lập ra nhà Nguyễn là vua Gia Long có tên tục là Noãn (trứng). Hoàng tộc nhà Nguyễn có lệ gọi cả con trai, con gái đều là mụ (mệ) cho dễ nuôi vì thế các vua hồi nhỏ đều có tên tục, như vua Dục Đức lúc nhỏ được gọi là mệ Tríu, vua Hiệp Hòa là mệ Mến, vua Bảo Đại là mệ Vững…

 Vua lấy nô tỳ làm vợ:
Những người được chọn làm vợ vua hầu hết đều xuất thân từ gia đình cao quý, con cháu quan lại, một số người từ tầng lớp dân thường do may mắn mà một bước lên bậc phi tần, vương hậu. Tuy nhiên vì những cơ duyên đặc biệt có phụ nữ ở thân phận nô tỳ, địa vị thấp hèn nhất trong xã hội nhưng lại trở thành vợ vua. Người thứ nhất là bà Nguyễn Thị Cẩn, vợ vua Lê Hiến Tông, bà quê ở Đông Ngàn (nay thuộc Bắc Ninh) vốn mồ côi, nghèo khổ phải đi làm người ở, sau bị bắt làm nô tỳ phục dịch trong cung, vì có sắc đẹp mà bà được vua Lê Hiến Tông lấy làm vợ, phong làm phi, bà chính là mẹ đẻ của vua Lê Uy Mục.
Người thứ hai là một bà phi họ Lê (không rõ tên), quê ở xã Sa Lung, châu Minh Linh (nay là huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị) vì gia đình mắc tội, bị bắt làm nô tỳ nhưng xinh đẹp, rất thông minh nên được Lê Uy Mục đón vào cung phong làm phi. Sách Đại Việt thông sử cho biết bà “hầu như độc chiếm tình yêu của vua”.
Chuyện cha con vua Lê Hiến Tông, Lê Uy Mục đều lấy nô tỳ làm vợ thật là chuyện lạ hiếm thấy trong lịch sử Việt Nam.

Vua Minh Mạng hai lần bị người phương Tây ám sát
Là vị vua thứ 2 của nhà Nguyễn, khác với cha mình là vua Gia Long, Minh Mạng không mấy thiện cảm với người phương Tây do nghi ngại sự nhòm ngó với ý đồ xâm lược, bên cạnh đó những việc buôn bán thuốc phiện, truyền đạo Thiên chúa của người Tây càng khiến chính sách của vua với những người tóc vàng, mắt xanh gay gắt hơn.
Có lẽ vì thái độ này, đặc biệt là chủ trương cấm đạo của vua mà Minh Mạng trở thành đối tượng cần “loại trừ” của người phương Tây; không rõ có bao nhiêu âm mưu hãm hại vua, nhưng trong sách Quốc sử di biên cho biết một đại thần là Hà Tông Quyền đã 2 lần cứu ông thoát chết: “Lúc bấy giờ khách buôn Tây dương dâng áo gấm, giá đáng nghìn vàng. Quyền tâu nói rằng của lạ ngoại quốc không nên vội tin, xin cho tên tử tù hãy mặc thứ áo ấy. Khi tên tù mặc áo ấy, cài cúc vừa xong thì hỏa phát, áo cháy, tên tù bị chết cháy. Vua kinh hãi quá ban khen Quyền. Sau, lại có người nước Hoa Lang (Hà Lan) dâng một đôi cây sáp lớn vẽ tứ linh. Quyền tâu xin cắt ngang một cây ra, thấy có chứa đạn súng và thuốc hỏa mù. Vua càng lấy làm lạ về tài thực của Quyền”.
Trần Thái Tông ngẫu hứng xuất ngoại
Có lần vua Trần Thái Tông đi tuần biên giới, có lẽ nổi hứng muốn biết bên ngoài thế nào bèn đi sâu vào địa giới nước Tống, qua Khâm Châu, Liêm Châu tự xưng là Trai lang. Để tiện cho việc tuần thú, ông bỏ thuyền bè lại chỉ dùng thuyền Kim Phượng và Nhật Quang ( Đại Việt sử ký toàn thư). Khi biết đó là vua nước Nam, người Tống liền chăng xích sắt trên sông để chặn đường. Vua trở về, nhổ vài chiếc cọc sắt đem theo (có lẽ để làm kỷ niệm chăng?).
Chuyến “xuất ngoại” ngẫu hứng này của vua Trần Thái Tông bị sử sách chê cười:  Bất quá mu"ốn xem sông núi ở nội địa Tống, cho là người Tống không làm gì được, chung quy vì sự đi chơi này mà gần bị người Tống làm khốn; thoát được miệng hùm là may đó” (Việt sử tiêu án).

Mạc Thái Tổ bị nhổ vào mặt
Mạc Thái Tổ, tức Mạc Đăng Dung, vốn xuất thân làm nghề đánh cá, vì có sức khỏe lại giỏi đánh vật nên được vào làm lính hầu cận cho vua, sau dần lên đến chức đại thần lớn trong triều đình nhà Lê. Tháng 6 năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung giết vua, cướp ngôi của nhà Lê lập ra nhà Mạc.
Nhiều quan lại trung thành với nhà Lê, người thì nổi binh chống Mạc, người thì tự vẫn để tỏ khí tiết; người thì ở ẩn tỏ thái độ bất hợp tác. Trong số đó có Nguyễn Thái Bạt, đỗ tiến sĩ khoa Canh Thìn (1520), làm quan đến chức Hiệu lý Hàn lâm viện. Ông bị Mạc Đăng Dung bắt ép phải vào triều kiến. Tức giận kẻ cướp ngôi, Nguyễn Thái Bạt giả vờ mắt kém xin đến gần để được nhìn vua mới rõ hơn, nhân thế ông nhổ nước bọt vào mặt Mạc Đăng Dung rồi lớn tiếng chửi mắng đến khi bị giết; đời sau có nhiều tác phẩm ca ngợi nghĩa khí của ông.

Lê Chiêu Thống bị lột mất hoàng bào
Lê Chiêu Thống lên ngôi tháng 8 năm Bính Ngọ (1786), ở ngôi 2 năm. Ông là vị vua gặp nhiều bất hạnh, quyền hành hạn chế trong thời kỳ xã hội có nhiều loạn lạc.  Năm Đinh Mùi (1787) quân Tây Sơn tấn công ra Bắc Hà để diệt quyền thần Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Chiêu Thống hoảng hốt bỏ chạy sang Kinh Bắc (Bắc Ninh ngày nay).
Trước cảnh thất thế của vua, viên quan Trấn thủ Kinh Bắc là Lê Cảnh Thước cáo bệnh không chịu đón tiếp, sau đó lại còn “tung chân tay ra chặn đường cướp bóc những người đi theo xa giá, chúng còn đuổi theo đòi lột hoàng bào của nhà vua. Nhà vua rớt nước mắt mà cởi ra để trao cho chúng” ( Hoàng Lê nhất thống chí).

Tự Đức – vị vua có hiếu nhất nhưng không có con, bị coi là "đại bất hiếu"
Vua có hiếu nhất là Tự Đức (1848-1883). Trong suốt 36 năm trên ngai vàng, ông bao giờ cũng dành ngày chẵn vào cung vấn an sức khỏe mẫu hậu, ngày lẻ thì lo việc triều đình, chẳng vì ngồi trên chỗ vạn năng quyền thế mà lơ là phận làm con. Khi vào thì sửa mình, nén hơi, quỳ xuống hỏi thăm sức khỏe rồi cùng mẹ bàn luận kinh sách . Bà Từ Dũ được vua săn sóc, tôn kính, vâng lời hết mực, bà truyền bảo điều gì đáng lưu tâm, vua liền ghi ngay vào cuốn sách nhỏ luôn mang theo mình gọi là “Từ huấn lục” (sách chép lời mẹ dạy) để nghiền ngẫm, suy nghĩ.
Không những thế, có gì lo âu vua liền thỉnh ý để được nghe ý kiến của mẹ, chính vì thế bà Từ Dũ đã từng đề nghị giảm thuế má cho dân vào những khi gặp thiên tai, mất mùa, đói kém, nhà vua đều làm theo. Có lần vua ham săn bắn, gặp nước lụt chảy mạnh bất ngờ, nên về cung muộn trong khi sáng hôm sau là ngày giỗ vua Thiệu Trị, bà Từ Dũ phải cho người đi đón. Đến cung, trời còn mưa to nhưng vua đi kiệu trần vội vào gặp mẹ xin chịu tội, ông lấy roi mây dâng lên rồi tự nằm xuống xin chịu đòn, bà Từ Dũ tha cho mới dám đứng dậy.
Xem thế, đủ biết vua Tự Đức thờ mẹ rất chí hiếu, thế nhưng theo dân gian thì vua cũng là người bất hiếu vì quan niệm rằng “Bất hiếu hữu tam, vô hậu chi đại” (Nghĩa là: Có 3 điều bất hiếu, không có con là điều nặng nhất). Tự Đức có rất nhiều vợ nhưng ông lại không có người con nào, thậm chí vua còn hạ cố lấy một bà sinh được nhiều con để hi vọng có được người nối dõi nhưng cuối cùng vua chỉ còn cách là đành nhận mấy người cháu làm con, ngay cả bài văn bia dựng ở lăng mộ mình cũng do vua tự viết.

Phùng Hưng dùng tiếng hò reo để hạ thành của giặc
Căm giận sự tham lam, tàn bạo của bọn đô hộ nhà Đường, một hào trưởng người Đường Lâm (nay thuộc Sơn Tây, Hà Nội) là Phùng Hưng đã đứng lên phát động khởi nghĩa. Ông đem quân đánh phá nhiều nơi, bọn quan quân nhà Đường chống không nổi kéo nhau chạy về phủ đô hộ Tống Bình (nay là Hà Nội).

Quân khởi nghĩa chia làm 5 đạo bao vây Tống Bình, tên quan đô hộ Cao Chính Bình đóng chặt cửa thành không dám ra đánh. Phùng Hưng liền cho quân reo hò ầm trời giả cách sắp đánh thành; cứ liên tục như vậy làm quân Đường “ăn không ngon, ngủ không yên” lúc nào cũng trong trạng thái nơm nớp kinh hoàng. Cao Chính Bình sợ phát ốm rồi chết, quân giặc không đánh mà tan phải xin hàng, Phùng Hưng chiếm lĩnh phủ thành, lên làm vua.Nhân dân suy tôn ông là Bố Cái đại vương.

Trần Dụ Tông mở sòng bạc tại cung đình
Chỉ ham vui chơi, không màng đến triều chính, Trần Dụ Tông thậm chí mở sòng để bài bạc trong cung. Sử chép rằng vua “họp các nhà giàu như làng Đình Bảng ở Bắc Giang, làng Nga Đình ở Quốc Oai vào cung đình đánh bạc làm vui, một tiếng bạc nghìn quan tiền…” ( Việt sử tiêu án).
Sử sách đã lên án mạnh mẽ việc làm này của vua, nhà sử học Phan Phu Tiên nhận xét: “…Dụ Tông công nhiên làm bậy, gọi những nhà giàu vào cung đánh bạc rồi sau người trong nước bắt chước cái dở ấy, không thể ngăn cấm được nữa. Cuối cùng vì tệ đánh bạc mà mất nước ( Đại Việt sử ký toàn thư); trong sách Việt sử tiêu án viết: “Làm vua một nước mà mở sòng đánh bạc để lấy hồ…thật đáng bỉ”.

Có 3 Lý Nam Đế?
Năm Nhâm Tuất (542), một hào trưởng người Việt tên là Lý Bí phát động khởi nghĩa và chỉ trong vòng ba tháng đã quét sạch quân đô hộ nhà Lương ra khỏi bờ cõi. Sau đó ông lên ngôi hoàng đế, xưng là Lý Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đến năm Mậu Thìn (548) trước khi mất, ông trao quyền lại cho Triệu Quang Phục (hiệu là Triệu Việt Vương).
Năm Đinh Sửu (557) một tướng cũ của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương để giành quyền lại cho họ Lý nhưng không thành, hai bên giảng hòa. Năm Tân Mão (571), Lý Phật Tử bất ngờ cho quân đánh úp, Triệu Việt Vương bị đại bại phải tự vẫn. Lý Phật Tử liền lên ngôi cũng xưng là Lý Nam Đế,  để phân biệt với Lý Bí, sử cũ gọi Lý Phật Tử là Hậu Lý Nam Đế.
Theo chính sử, năm Nhâm Tuất (602), giặc Tuỳ sang xâm lược, Hậu Lý Nam Đế chống không nổi phải đầu hàng rồi bị bắt đưa về phương Bắc, kết thúc 31 năm làm vua; tuy nhiên theo sách Việt điện u linh thì “Hậu Lý Nam đế làm vua 23 năm, sau bị phó tướng là Lưu Đức diệt”. Khác với chính sử, một số tư liệu dã sử thì cho biết người quân Tùy bị bắt không phải là Lý Phật Tử (Hậu Lý Nam Đế) mà là một vị vua khác cũng xưng hiệu là Lý Nam Đế, đó là Lý Sư Lợi, con trai thứ của Hậu Lý Nam Đế. Lên làm vua được mấy năm, chỉ ham ăn chơi hưởng lạc vì thế vị Hậu Lý Nam Đế thứ 2 này khi giặc chưa đánh đã xin hàng rồi bị bắt làm tù binh. Ông tự chuốc nhục vào thân, làm nước mất nhà tan.
Mỗi vị vua có suy nghĩ, quan điểm, hành động khác nhau khi ngồi trên ngai vàng. Và số phận của họ cũng chứa đựng những chuyện lạ kỳ rất khác nhau.
Mai Hắc Đế một mình đánh hổ
Nhắc tới chuyện đánh hổ, mọi người thường nghĩ ngay đến Võ Tòng trong tác phẩm Thuỷ Hử mà không biết rằng ở Việt Nam ta, nơi “hào kiệt đời nào cũng có” thì chuyện đánh hổ không phải là hiếm. Nếu như chuyện đánh hổ của Bố Cái đại vương Phùng Hưng được lưu truyền rộng rãi từ bao đời nay thì chuyện đánh hổ cứu mẹ của Mai Hắc Đế lại ít người được biết.

Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan) là người thứ 2 trong lịch sử nước ta xưng đế sau khi lãnh đạo thắng lợi cuộc khởi nghĩa lật đổ ách đô hộ của nhà Đường. Thuở nhỏ, một lần Mai Thúc Loan cùng mẹ vào rừng kiếm củi, bất ngờ có một con hổ lớn lông vàng chồm ra ngoạm lấy cổ bà mẹ định tha đi. Cậu bé họ Mai nghe tiếng thét của mẹ liền lao đến giang tay chém mạnh một nhát rìu vào đầu hổ, con hổ dữ bị chém đòn thí mạng phải buông mồi nhưng liền nhảy tới tát mạnh vào kẻ tấn công. Mai Thúc Loan tránh được rồi dồn sức dùng rìu chém tiếp khiến con hổ bạt vía cụp đuôi bỏ chạy vào rừng với vết thương lớn trên người. Người mẹ thoát khỏi nanh vuốt của hổ nhưng vì vết thương trên cổ quá nặng nên đã qua đời, Mai Thúc Loan trước đã mồ côi cha nay mất cả mẹ. Ông được một người bạn của cha tên là Đinh Thế cưu mang, nuôi dạy. Đến khi Mai Thúc Loan trưởng thành Đinh Thế đã gả con gái là Đinh Thị Ngọc Tô. Chính người vợ này và gia đình bà đã giúp đỡ Mai Thúc Loan rất nhiều trong việc chuẩn bị lực lượng dấy cờ khởi nghĩa.

Những món quà “độc” của vua Lê Đại Hành
Năm Canh Dần (990), sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt, sứ giả nhà Tống là Tống Cảo sang nước ta nối lại quan hệ ngoại giao. Trong chuyến đi này đoàn sứ giả nhà Tống đã được vua Lê Đại Hành tặng những món quà đặc biệt, đáng nhớ suốt đời.
Một lần sau bữa tiệc, vua cho người khiêng một con trăn lớn dài vài trượng đến quán dịch nói với sứ Tống: Nếu sứ thần ăn được thịt trăn thì vua tôi sẽ cho người làm cỗ để mời. Sứ Tống khiếp đảm từ chối. Một lần khác, Lê Đại Hành cho người dắt tới hai con hổ dữ tặng cho sứ thần thưởng ngoạn làm phái bộ nhà Tống lại một phen sợ toát mồ hôi.

Lý Thái Tông đề xướng “Người Việt dùng hàng Việt”
Vị vua thứ 2 của nhà Lý là Lý Thái Tông. Trong 26 năm ở ngôi báu ông đã có những đóng góp tích cực tới hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng quốc gia, củng cố bộ máy nhà nước và để lại nhiều dấu ấn thú vị, đáng nhớ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá ông “là người nhân triết thông tuệ, có đại lược văn võ, trong lục nghệ không nghề gì không tinh tường. Vì có tài đức ấy nên có thể làm mọi việc”. Tổng kết về sự nghiệp và đức độ của Lý Thái Tông, sách Việt giám thông khảo tổng luận khen ngợi là người “trí dũng gồm hai, đánh đâu được đấy; có đức hiếu hữu, học tập lễ văn, đánh giặc giã, dẹp man nhung, cày tịch điền, khuyên việc ruộng, dân oan có chuông, việc hình có luật; là một bậc vua giỏi giữ nền nếp vậy”.
Là người có tinh thần dân tộc cao, Lý Thái Tông là người đi đầu trong việc bài trừ tư tưởng sùng ngoại. Tháng 2 năm Canh Thìn (1040) “vua dạy cung nữ dệt gấm vóc. Tháng ấy xuống chiếu phát hết gấm vóc trong kho ban cho các quan. Làm vậy để tỏ ý là vua sẽ không dùng gấm vóc của nước Tống nữa” (Đại Việt sử ký toàn thư). Đánh giá về việc này, các sử thần nhà Nguyễn trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục phê một câu rất ngắn gọn: Được.

Thảm cảnh của Lý Huệ Tông

Ngay từ khi còn là hoàng thái tử, Lý Huệ Tông đã phải bao phen chạy loạn khốn đốn bởi cảnh chém giết trong triều giữa quan lại và phe phái cát cứ bên ngoài. Làm vua chẳng bao lâu thì ông mắc bệnh điên , “có khi tự xưng là thiên tướng giáng hạ, tay cầm giáo và mộc, tóc cắm cờ nhỏ, đùa múa từ sáng sớm đến chiều tối không nghỉ…” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Vin cớ đó, họ Trần ép vua nhường ngôi rồi bắt đi tu. Thế là từ một người tôn quý ở ngôi vị cửu trùng “nay thì lê đôi giầy cỏ, chống cái gậy tre, thất thểu là một người nhà chùa, người có lương tâm ai thấy đều rơi lệ” (Việt sử tiêu án). Sợ lòng người trong thiên hạ còn nhớ vua cũ, Trần Thủ Độ đã bức tử Lý Huệ Tông.

Lê Thánh Tông xin lỗi bề tôi
Lê Thánh Tông trong 37 năm làm vua đã đưa nước Đại Việt trở thành một quốc gia hùng cường.
Dù là một minh quân, Lê Thánh Tông cũng không tránh khỏi những sai lầm nhất định.Nếu như Lý Cao Tông dũng cảm nhận lỗi trước muôn dân thì Lê Thánh Tông cũng không vì địa vị cao sang mà quên rằng cần phải thừa nhận những điều mình làm không đúng. Một lần vua xử phạt mấy viên tướng bại trận, quan Ngự sử Trần Xác cho rằng việc thưởng phạt không đúng lệ định, Lê Thánh Tông tức giận mắng ông. Ít lâu sau vua nghĩ lại thấy mình sai bèn nhận lỗi và xin được nghe tiếp những lời thẳng thắn của Trần Xác: “Ta vì vu oan cho ngươi là kẻ biện bác để mê hoặc người, đó là ta lỡ lời. Nay ngươi có mưu kế gì hãy cứ nói với ta, ấy cũng là như cơn mưa ngọt đến khi trời hạn, như con thuyền đến lúc ta cần đi qua sông” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Ai làm chúa rồi lại làm vua?

Khi nhắc đến chính quyền của họ Nguyễn người ta thường nói tới “chín chúa, mười ba vua”. Điều đó không sai nhưng chưa chính xác bởi thực ra họ Nguyễn có tới 10 đời chúa; tháng 9 năm Đinh Dậu (1777), vị chúa thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần trong một trận đánh ác liệt với quân Tây Sơn đã bị bắt, sau đó bị giết. Sự nghiệp phục dựng quyền bính của họ Nguyễn đặt hết lên vai Nguyễn Phúc Ánh, đây chính là người duy nhất trong lịch sử Việt Nam làm chúa rồi lại làm vua.
Sau một thời gian tổ chức lại lực lượng, tiến hành tái chiếm nhiều vùng đất và làm chủ cả vùng Gia Định, đến năm Canh Tý (1780) Nguyễn Phúc Ánh chính thức lên ngôi chúa và xưng vương, dùng niên hiệu Cảnh Hưng của vua Lê trong các văn bản giấy tờ, cho đúc ấn “Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo” để sử dụng. Trải nhiều năm tháng với các trận chiến ác liệt, đến tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) Nguyễn Phúc Ánh đánh bại nhà Tây Sơn rồi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Gia Long (1802-1819), lập ra triều Nguyễn. Các vị quân vương là “thiên tử” thay trời hành đạo nhưng cũng phải nếm đủ mùi vị của cuộc sống với muôn vẻ bi hài.
Trần Nhân Tông có màu da như vàng ròng
Trần Nhân Tông là một minh quân trong lịch sử Việt Nam, là người lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược lần thứ 3, là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, dòng thiền đặc trưng của Phật giáo Việt Nam.
Trần Nhân Tông còn có tên là Kim Phật, cái tên đặc biệt này xuất phát từ nước da lạ kỳ của vua. Sách Đại Việt sử ký toàn thư không ghi cụ thể về điều đó mà chỉ cho biết vua “được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung (tức Thượng hoàng Thái Tông và vua Thánh Tông) đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử”.
Trong sách Thiền Tông bản hạnh thì ghi mẹ vua là Nguyên Thánh Hoàng thái hậu nằm mộng thấy thần trao cho hai thanh kiếm và bảo bà lựa chọn rồi từ đó có mang mà sinh ra vua. Đặc biệt, trong Thánh Đăng ngữ lục chép rõ về nước da của Trần Nhân Tông như sau: “Đến khi vua ra đời, màu da như vàng ròng. Thánh Tông đặt tên là Kim Phật...”.
Trần Duệ Tông chết vì chủ quan
Trần Dụ Tông tên thật là Trần Kính, lên ngôi báu năm Nhâm Tý (1372). Sử sách đánh giá vị hoàng đế này là “người ương bướng, tự theo ý mình, không nghe lời can, kinh thường quân giặc nên tai vạ đến mình” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Chuyện rằng, vua thấy Chiêm Thành luôn xâm phạm bờ cõi, bèn thân chinh đem quân đi trừng phạt. Tháng 1 năm Đinh Tị (1377) quân Chiêm chống không nổi liền rút lui, khi Trần Duệ Tông đến gần kinh đô Đồ Bàn thì có người Chiêm trá hàng nói rằng vua Chiêm đã bỏ thành chạy rồi, cần tiến binh ngay. Tướng Đỗ Lễ can ngăn, khuyên vua suy xét kỹ. Nhưng Trần Duệ Tông cho rằng Đỗ Lễ hèn nhát rồi cứ cho tiến quân vào thành Đồ Bàn. Quân Chiêm bất ngờ đổ ra vây hãm. Quân Trần thua to. Trần Duệ Tông và nhiều tướng sĩ chết trong trận này.
Hồ Hán Thương lập cơ quan y tế đầu tiên
Dưới triều Hồ, nhiều chính sách cải cách có những điểm rất tiến bộ. Một trong số đó là việc thiết lập cơ quan y tế cấp quốc gia. Cơ quan y tế đó do vua Hồ Hán Thương lập ra tháng 9 Quý Mùi (1403) để chữa trị bệnh tật cho người dân mà không có sự phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Phương sĩ Nguyễn Đại Năng, người ở Giáp Sơn có thuật dùng lửa cứu hoặc lấy kim châm để chữa bệnh cho người, Hán Thương bổ làm chức Quảng Tế thự thừa. Đặt quan thuộc Quảng Tế bắt đầu từ đó”. Như vậy cơ quan y tế công cộng đầu tiên ở nước ta có tên gọi là Quảng Tế (một số sách chép là Quảng Tế hựu, Quảng tế thự, Quảng tế thực…) và người đứng đầu cơ sở này giữ chức Quảng Tế tự thừa .
Nhân vật Nguyễn Đại Năng quê ở Giáp Sơn (nay là huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) là một danh y, nhà châm cứu tài năng, để lại một tác phẩm nổi tiếng là sách “Châm cứu tiếp hiệu diễn ca” ghi cách chữa 130 bệnh dùng 140 huyệt châm cứu, trong đó có 11 huyệt do người Việt tìm ra. Đây là tác phẩm chuyên ngành châm cứu đầu tiên ở nước ta.
Con hổ xám và sự ra đời của vua Lê Thái Tổ
 Lê Thái Tổ tên thật là Lê Lợi. Ông sinh vào giờ Tý, ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu (1385). Truyền rằng ở thôn Như Áng, gần nhà vua “có một cây quế, dưới cây quế có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng hại ai. Từ khi Hoàng đế ra đời, thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho đó là một sự lạ.
Ngày Hoàng đế sinh thì trong nhà có hào quang đỏ chiếu sáng rực và mùi thơm ngào ngạt bay khắp làng. Khi lớn lên, ngài thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng mồm rộng; sống mũi cao. Xương mi mắt gồ lên; bả vai bên tả có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ; tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường” (Đại Việt thông sử).
Mạc Mậu Hợp bị sét đánh suýt chết
Mạc Mậu Hợp là vị vua thứ năm của nhà Mạc, ở ngôi 31 năm (1562 - 1592). Mạc Mậu Hợp “chỉ ham chơi bời, say đắm tửu sắc, không để ý đến việc nước” (Đại Việt thông sử) nên cơ nghiệp dần suy vong. Kết cục phải bỏ chạy khỏi Thăng Long, con cháu sau này chỉ giữ được một phần đất nhỏ ở Cao Bằng, Tuyên Quang mà thôi…
Mạc Mậu Hợp có lần đang ở trong cung thì bị sét đánh, tuy vua không chết nhưng bị liệt mất nửa người, sau một thời gian chữa trị mới bình phục. Chuyện này xảy ra vào năm Mậu Dần (1578), sách Đại Việt thông sử cho biết: “Ngày 21 tháng 2, Mậu Hợp ở trong cung, bị sét đánh vào cung, thành chứng “bán thân bất toại”, sau chữa thuốc lại khỏi, bèn đổi niên hiệu năm ấy làm niên hiệu Diên Thành thứ nhất”. Đến năm Tân Tị (1581) Mạc Mậu Hợp lại bị bệnh “thong manh”, mắt mờ hầu như không nhìn thấy gì, lần bị bệnh này vua phải chữa trị đến mấy năm con mắt mới trở lại bình thường.
Minh Mạng phải tự chèo thuyền tránh hổ
Lịch sử Trung Quốc có một số hoàng đế cho lập chợ ngay trong hoàng cung, sai cung nữ, thái giám đóng giả người mua kẻ bán để vua đi xem nhằm tìm cái thú vui dân dã. Ở Việt Nam, vua Minh Mạng đã từng làm như vậy. Thậm chí ông còn có sở thích xem voi và hổ đấu nhau nên đã cho xây cả chuồng nuôi hổ, chính vì thế có lần vua bị hổ xổng ra lao đến gần khiến ông phải tự mình chèo thuyền tránh họa. Chuyện này được sách Quốc sử di biên ghi lại tóm lược như sau:
“Vua thích làm cung điện và ngự uyển, xây nhà thủy tạ, nhà chơi mát ở phố Chợ, sai cung nhân bán hàng, có nội giám làm cung sứ, mua bán theo giá. Vua thường ngự thủ liễn đi chơi chợ, đến thì ăn uống để mua vui. Lại làm chuồng hổ ở núi Thiên Mạc, bốn mặt xây tường để nuôi hổ, thường ngự trên tường xem voi đánh nhau với hổ… Một hôm, vua ngự thuyền rồng, có hổ xông ra đến gần thuyền vua, vua tự cầm lái bơi theo để giữ mình, có người lính đánh bắt được hổ, vua gia thưởng quân công một thứ”.

Vua Đồng Khánh thích trang điểm
Nếu như vua Khải Định là người nổi tiếng với cách ăn mặc diêm dúa, lai căng nửa Âu nửa Á thì cha của ông là vua Đồng Khánh lại là người ưa trang điểm. Đây là vị vua thứ 9 của nhà Nguyễn, được Pháp đưa lên ngôi năm Ất Tị (1885) lấy niên hiệu là Đồng Khánh sau khi Pháp phế bỏ vị vua yêu nước Hàm Nghi.
Đồng Khánh là ông vua đầu tiên của triều Nguyễn thừa nhận nền bảo hộ của Pháp, tiếp xúc với nền văn minh Tây phương và ưa thích các mặt hàng, đồ vật của châu Âu. Trong sinh hoạt thường nhật, ông vua rất chú ý đến ngoại hình và ưa thích trang điểm.
Một người Pháp tên là F. Baille từng được gặp vua Đồng Khánh đã kể lại trong bài "Les Annamite" như sau: “Hằng ngày một toán cung nữ được chọn trong tất cả đẳng cấp phục dịch Đức vua. Ba mươi người chia nhau canh gác hậu cung của Ngài, năm nàng luôn ở cạnh Ngài, luân phiên săn sóc, trang điểm cho Ngài. Các nàng thay quần áo cho Ngài, chải chuốt bộ móng tay cho dài hơn ngón tay, thoa dầu thơm, vấn khăn lụa chung quanh đầu Ngài. Sau cùng, chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhặt quanh Ngài sao cho thật hoàn hảo”.
Vua Dục Đức và gã ăn mày cùng chung một huyệt mộ
Tháng 6 năm Quý Mùi (1883) vua Tự Đức mất, để di chiếu cho người con nuôi lớn của mình là Nguyễn Phúc Ưng Chân lên nối ngôi. Thế nhưng ngay trong lễ đăng quan, nhiều đại thần đứng đầu là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường vì không ưa nên vin vào cớ di chiếu có đoạn nói mắt Ưng Chân có tật, rồi giam lỏng ông, sau đó phế truất. Về danh nghĩa, Ưng Chân ở trên ngôi báu chưa đầy 3 ngày.
Trở thành một tù nhân, Ưng Chân bị đem giam ở ngôi nhà học của mình trước đây là Dục Đức Đường nên sử sách thường lấy tên đó để gọi vua là Dục Đức. Về sau ông bị giam tại ngục thất phủ Thừa Thiên, bị bỏ đói cho đến chết vào tháng 9 năm Giáp Thân (1884), thi thể bó trong một chiếc chiếu rách. Hai người lính và và một viên suất đội gánh xác đi chôn trong một ngày mưa gió. Đến đầu làng An Cựu ở ngoại thành Huế thì dây bị đứt, xác vua rơi xuống cạnh một khe nước nông, người ta tin rằng, ông đã “tự chọn” nơi yên nghỉ của mình tại đó nên chôn cất qua loa cho xong.
Bi đình và lăng tẩm vua Dục Đức
Vì không được quan tâm, chăm sóc, ngôi mộ dần tàn lụi như đất bằng, chẳng ai còn nhớ đó là mộ vua. Không lâu sau, có một ông lão ăn mày qua đấy bị kiệt sức và chết gục trên nấm mộ Dục Đức. Dân địa phương đã chôn người ăn mày ngay trên mộ vua mà không hay biết. Về sau, con của Dục Đức bất ngờ được lên ngôi, lấy hiệu là Thành Thái.
Theo chỉ dẫn của những người am tường sự việc, Thành Thái tìm được mộ của vua cha. Khi cải táng, lại thấy trong mộ có hai bộ xương nên đành lấp lại và cho xây dựng lăng mộ tại đó vào đầu năm Canh Dần (1890) và đặt tên là An Lăng. Đó là lăng mộ chứa cả thi hài của ông vua xấu số và ông lão ăn mày tốt số.

 Trần Minh Tông bị ong đốt mà qua đời

Trần Minh Tông là vị vua thứ 5 của nhà Trần, được đánh giá là người “tính trời khiêm hòa, nhận ngôi của Anh Tông nhường, để tâm vào thú hàn mặc, sính bút ở tập Thủy vân, có thơ khuyên người hiền, có bài răn uống rượu, dường như cũng đáng khen” ( Việt giám thông khảo tổng luận).

Trong cuộc đời mình, Trần Minh Tông thấy ân hận, day dứt nhất là việc nghe lời xiểm nịnh giết oan bố vợ đồng thời cũng là chú ruột của mình là Huệ Võ vương Trần Quốc Chẩn vào tháng 3 năm Mậu Thìn (1328). Sau này vụ việc sáng tỏ, vua lấy làm ân hận cho khôi phục chức tước, sai lập đền thờ Trần Quốc Chẩn, thế nhưng vụ án oan khuất đó vẫn ám ảnh ông.

Tháng 8 năm Bính Thân (1356) khi đã lên làm Thái thượng hoàng, Trần Minh Tông về thăm đền thờ cha vợ ở núi Kiệt Đặc (thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương ngày nay). “Khi trở về, trong thuyền ngự có con ong vàng đốt vào má phía bên trái của Thượng hoàng, rồi Thượng hoàng bị bệnh” (Đại Việt sử ký toàn thư). Về đến Thăng Long, bệnh tình của Trần Minh Tông ngày một xấu, đến tháng 2 năm Đinh Dậu (1357) thì qua đời. Theo dã sử, con ong vàng đó chính là oan hồn của Trần Quốc Chẩn về báo thù.

Vua Lê Cung Hoàn:  khát không nước, đói phải xé áo nhai
Lê Cung Hoàng là vị vua cuối cùng của thời Lê sơ. Ông được đưa lên ngôi tháng 12 năm Nhâm Ngọ (1522), đến tháng 6 năm Đinh Hợi (1527) bị Mạc Đăng Dung cướp ngôi, sau đó giam cầm rồi bức tử, thọ 20 tuổi.
Thảm cảnh của vua được sách Đại Việt thông sử cho biết như sau: “Đăng Dung cướp ngôi, phế truất vua xuống làm Cung vương, giam vua và Thái hậu vào cung Tây Nội, không cho ăn uống gì cả trong 7 ngày, đến nỗi phải xé áo mà nhai”. Còn sách Lê triều dã sử viết rõ hơn: “Giáng vua xuống làm Cung vương, lại giam vua cùng mẹ vua là Hoàng thái hậu vào cung nội, trời tháng 7 mà một giọt nước cũng không cho uống, đến nỗi phải xé áo mà ăn”.

Sau đó Mạc Đăng Dung sai mang dải lụa vàng bắt hai mẹ con vua phải tự tử rồi đem xác hai người phơi bày ngoài quán Bắc Sứ (nay thuộc khu vực phố Quán Sứ, Hà Nội) rồi đưa về chôn ở lăng Hoa Dương, huyện Ngự Thiên (nay thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình).

Lê Hiển Tông băng hà không có đồ làm tang lễ

Lê Hiển Tông là người làm vua lâu nhất triều Hậu Lê (46 năm, từ 1740 đến 1786). Tháng 7 năm Bính Ngọ (1786) Lê Hiển Tông lâm bệnh mất. Mọi nghi thức trong lễ tang của ông đều do con rể là Nguyễn Huệ lo liệu chu đáo. Tuy nhiên ít người biết rằng triều đình lúc đó không chuẩn bị nổi đồ tang lễ cho vua nên phải trưng dụng đồ “hung minh khí” (quần áo, đồ dùng bằng giấy và các vật dụng cho người chết) của một viên hoạn quan.
Sách Lê triều dã sử cho hay: “Ngày 17 mưa to gió lớn, trong thành nước dâng lên một thước, đúng ngày hôm đó vua mất… Xét lúc bấy giờ đang lúc tan tác, cập rập, đồ khâm niệm chưa kịp sắm đầy đủ. Có nhà viên quan Thái giám là Châu sắm trước đồ hung minh khí chưa sơn thiếp nhưng rất tinh xảo, bộ Lễ dụ dỗ ông ta đem tiến dâng, bèn lấy dùng. Phát gấm hoa vàng trong kho nội phủ, trang trí khảm nạm, 5 ngày thì xong, rồi mang quan tài xuống thuyền. Huệ sai Nội tán là Trần Văn Kỷ cùng Hữu quân Chỉnh hộ tống về Thanh Hóa, chôn ở lăng Bàn Thạch”.

Trần Thái Tông đoán dúng ngày giờ mình chết
Ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu (1277) Trần Thái Tông băng hà, theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, trước đó một năm vị vua này đã đoán trúng thời điểm mình sẽ qua đời, khi ấy ông đã rời ngôi báu để làm Thái Thượng hoàng được 18 năm:

“Trước đó, Thượng hoàng đến ngự đường, bỗng thấy con rết bò trên áo ngự. Thượng hoàng sợ, lấy tay phủi nó rơi đánh "keng" xuống đất, nhìn xem thì hóa ra cái đinh sắt, đoán là điềm năm Đinh. Lại có lần đùa sai Minh tự Nguyễn Mặc Lão dùng phép nghiệm quan nghiệm xem điềm lành hay điềm dữ.
Hôm sau Mặc lão tâu: "Thấy một chiếc hòm vuông bốn mặt đều có chữ Nguyệt, trên hòm có một cái kim, một chiếc lược". Thượng hoàng lại đoán: "Hòm tức là quan tài, chữ "nguyệt" (tháng) ở bốn bên tức là tháng 4, cái kim có thể cắm vào vật gì, tức là nhập vào quan tài, chữ "sơ" là chiếc lược, đồng âm với "sơ" là xa tức là sẽ xa rời các ngươi".
Lại lúc ấy đương có trò múa rối, thường có câu: "Mau đến ngày mồng 1 thay phiên". Thượng hoàng lại đoán: "Thế là ngày mồng 1 ta chết". Năm trước, có một hôm thượng hoàng chợt bảo tả hữu: "Tháng 4 sang năm ta tất chết". Quả như vậy”.
Lý Thần Tông kiếp trước là thiền sư Từ Đạo Hạnh 
Lý Thần Tông tên thật là Lý Dương Hoán, con của Sùng Hiền Hầu (em ruột Lý Nhân Tông), được Lý Nhân Tông nhận làm con nuôi rồi truyền ngôi cho năm Đinh Mùi (1127).
Sách Đại Việt sử lược cho biết vua Lý Thần Tông chính là hiện thân kiếp sau của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Từ Đạo Hạnh tên thật là Từ Lộ, ông bị Lý Nhân Tông bắt tội khi yểm bùa trong lễ cầu thác sinh có con của vua. Lúc đó Sùng Hiền Hầu đi qua, Từ Lộ đề nghị cứu giúp, “ngày sau xin ngụ thai trong cung để báo đáp công đức này”. Nghe lời xin tha của Sùng Hiền Hầu, vua miễn tội cho, rồi Từ Lộ về tu ở chùa Thiên Phúc (chùa Thầy, Hà Nội ngày nay). Khi vợ có thai, Sùng Hiền Hầu liền báo tin cho Từ Lộ, ông liền tắm rửa, thay quần áo và bảo học trò rằng: Mối túc nhân của ta chưa hết, phải làm thác sinh lần nữa ở đời, tạm làm đế vương…, dặn xong rồi đọc một bài kệ, sau đó hoá. Đồng thời khi ấy phu nhân Sùng Hiền Hầu sinh con trai, đặt tên là Lý Dương Hoán, đó chính là Lý Thần Tông sau này.
Dương Bình Vương có tới…3.000 người anh em
Dương Bình Vương tên thật là Dương Tam Kha, quê ở làng Ràng, xã Dương Xá, đất Ái Châu (nay thuộc xã Thiệu Dương, huyện Thiệu Hoá, Thanh Hoá), là con trai của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ, thủ lĩnh cuộc kháng chiến chống Nam Hán, giành độc lập cho đất nước năm Tân Mão (931).

Dương Tam Kha lên làm vua đầu năm Ất Tị (945) sau khi cướp ngôi của cháu là Ngô Xương Ngập, ở ngai báu được hơn 5 năm thì bị lật đổ, sau về ở ẩn. Ít ai biết rằng ngoài anh chị em ruột, vị vua này có tới 3000 người anh em khác, đó là vì cha của ông là Dương Đình Nghệ “nuôi con nuôi 3000 người, mưu khôi phục cơ đồ” ( Đại Việt sử ký toàn thư).

Có thể thấy việc nhận con nuôi của Dương Đình Nghệ, trong đó có nhiều người là nghĩa sĩ, thủ lĩnh, thổ hào ở các địa phương chính là phương cách nhằm gắn kết tình cảm, tăng cường sự đoàn kết chống giặc. Cũng vậy mà con của ông là Dương Tam Kha, nếu tính cả anh chị em ruột gồm Dương Nhất Kha, Dương Nhị Kha, Dương Thị Ngọc Thư (vợ Ngô Quyền) và Dương Thị Ngọc Vân thì có đến 3.004 anh chị em.
Lý Huệ Tông 3 lần mới đón được vợ
Nếu như thời Hậu Hán, Lưu Bị phải ba lần hạ mình đến lều tranh để cầu hiền, mời Khổng Minh ra giúp mình thì ở Đại Việt vào cuối triều Lý, vua Lý Huệ Tông cũng mất 3 lần cử người vất vả ra đi nhưng không phải cầu hiền mà là đón vợ về cung.

Thông thường ngay sau khi lên ngôi các vị vua ban chiếu đại xá thiên hạ, giảm hoặc miễn thuế, bổ dụng những đại thần có năng lực để phụ tá…Riêng Lý Huệ Tông thì việc làm đầu tiên là lo cho… mối tình đầu của mình. Ông sai quan phụng ngự đi đón vợ là Trần Thị Dung, người mà ông lấy khi chạy loạn đến đất Lưu Gia (nay thuộc huyện Hưng Nhân, Thái Bình). Tuy nhiên đoàn rước bị nhà gái từ chối. Đó là vào tháng 10 năm Canh Ngọ (1210) vua sai người đi đón vợ về nhưng anh trai của bà là Trần Tự Khánh “không chịu cho đón” (Đại Việt sử lược). Tháng giêng năm Tân Mùi (1211) vua lại sai người đi đón vợ nhưng Trần Tự Khánh cũng không chịu cho em gái về kinh; đến lần thứ ba, vào tháng 2 năm đó quan phụng ngự Phạm Bố mới đưa được bà Trần Thị Dung về Thăng Long.
Vua tự mình đánh trống trận đốc chiến
Vị vua đó là Giản Định Đế (1407-1409). Ông tên thật là Trần Ngỗi, là con cháu nhà Trần, được lực lượng kháng chiến chống quân Minh tôn lên làm vua tháng 10 năm Đinh Hợi (1407) , hào kiệt khắp nơi nổi dậy hưởng ứng, uy thế ngày một lớn.

Hoảng sợ trước lực lượng của Giản Định Đế, nhà Minh vội sai tướng Mộc Thạch đem 5 vạn quân sang tăng viện nhằm tiêu diệt nghĩa quân. Ngày 14 tháng 12 năm Mậu Tý (1408) tại bến Bô Cô (nay thuộc xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, Nam Định), một trận ác chiến long trời lở đất đã diễn ra. Hơn hẳn về lực lượng, quân Minh ngày càng chiếm ưu thế, trước tình hình đó Giản Định Đế đã tự mình cầm dùi đánh trống đốc chiến. Quân ta được tăng thêm sĩ khí, ra sức chiến đấu, chém chết nhiều tướng giặc. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư thì trong trận đánh này 10 vạn quân Minh (gồm cả số quân cũ và quân mới tăng viện) bị giết gần hết, tên tướng giặc Mộc Thạch một mình một ngựa thoát chết chạy về thành Cổ Lộng.
Lê Thái Tổ có một người em kết nghĩa dưới gốc thị
Lê Thái Tổ tên thật là Lê Lợi, người sáng lập lên vương triều Hậu Lê sau khi lật đổ ách đô hộ của giặc Minh. Sự nghiệp của ông thành công có đóng góp không nhỏ của biết bao anh hùng hào kiệt, mưu sĩ quân sư; có người đã để lại danh tiếng vang dội như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Lai, Nguyễn Xí, Đinh Lễ… Nhưng trong những người danh tiếng vang dội trên không có ai vinh dự trở thành anh em nghĩa của Lê Lợi. Vinh dự đó lại thuộc về một người ít được sử sách nhắc tới: ông là Nguyễn Tuấn Thiện (sau được mang Quốc tính gọi là Lê Thiện).

Nguyễn Tuấn Thiện quê ở Phúc Dương (nay thuộc huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh), thủ lĩnh đội quân "Cốc Sơn" chống giặc Minh tại quê hương, về sau đem lực lượng ra nhập nghĩa quân Lam Sơn. Thấy ông là người tài giỏi, thông minh, trung thực, có uy tín với dân chúng trong vùng, Lê Lợi rất yêu mến nên đề nghị kết nghĩa anh em. Hai người đã giết ngựa trắng uống máu, cắt tóc ăn thề dưới một gốc cây thị cạnh nhà Nguyễn Tuấn Thiện. Đến nay người dân địa phương vẫn lưu truyền câu thơ: “Cắt tóc, giết ngựa trắng/Dưới gốc thị thề nguyền/Nguyện đồng tâm đồng chí/Phá giặc xây cơ đồ”.
Vua Tự Đức thuở nhỏ đã từng mơ đỗ Trạng nguyên
Vua Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Thì, còn gọi  là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm. Từ nhỏ vị vua này đã nổi tiếng là người thông minh, hiếu học, ông rất giỏi Nho học, sử học, triết học, văn học nghệ thuật và đặc biệt là rất sính thơ. Vua đã để lại 600 bài văn, 4.000 bài thơ chữ Hán và khoảng 100 bài thơ chữ Nôm.

Chính vì giỏi văn chương thơ phú mà vua đâm ra tự phụ, có lần đã nói với quần thần rằng: “Trẫm không đi thi, nhưng nếu đi thi, tất sẽ đỗ Trạng nguyên”. Thực ra mong muốn đỗ Trạng nguyên của vua có từ hồi rất nhỏ nhưng ông đã quên mất điều đó và chỉ nhớ ra khi mẹ vua là bà hoàng Từ Dũ nhắc lại. Trong bài văn “Khiêm cung ký” do Tự Đức viết để cho khắc trên bia đá đặt ở lăng mộ của chính mình, ông cũng nhắc tới chuyện này: “Lúc biết nói, biết đi, ta từng cầm than viết lên tường. Có kẻ lấy làm lạ hỏi, ta đáp đó là chữ Trạng, vì đỗ đầu Tấn sĩ, tục gọi là Trạng nguyên. Đó là việc ngày nay mẹ ta thuật lại”.
 Vua Khải Định gửi ngọc khánh tặng Giáo hoàng La Mã
Trong chuyến xuất dương sang thăm nước Pháp năm Nhâm Tuất (1922), vua Khải Định đã gửi tặng Giáo hoàng ở Vatican một món quà do một đại thần chuyển đến. Theo sách Khải Định chính yếu sơ tập món quà là một chiếc ngọc khánh kèm theo một bức thư có nội dung như sau: “Giáo hoàng là chủ của một tôn giáo, dân bản quốc có rất nhiều người tín mộ. Nay quả nhân giá ngự sang triều đình Đại Pháp để bày tỏ tình hữu hảo ngày trước. Quan đại thần đi theo hộ giá là Đông các Đại học sĩ, Phúc Môn bá Nguyễn Hữu Bài có xin phép được sang quý thành để chiêm bái Thánh tích, nhân đó đặc biệt ủy mệnh mang sang tặng cho Giáo hoàng một chiếc Ngọc khánh hạng cực đại cùng với dây đeo làm kỷ niệm để bày tỏ tấm tình”.

Xét danh sách các Giáo hoàng La Mã thì vị Giáo hoàng được vua Khải Định tặng quà là Giáo hoàng Pius XI (tên thật là Achille Ratti).
Chuyện tình ái của các vị vua Việt Nam dù không được chính sử sách ghi chép cụ thể nhưng các nguồn tư liệu dã sử, ngọc phả và các giai thoại dân gian đã cho thấy cả một thế giới đầy màu sắc.
Vua Bảo Đại từng  bị tình địch bắn gãy chân
Vua Bảo Đại là vị hoàng đế đa tình. Khó tính hết được đã có biết bao người phụ nữ đủ các dân tộc, quốc tịch đi qua cuộc đời ông.
Vì đa tình quá mà không ít lần Bảo Đại suýt rước họa vào thân. Sau khi làm lễ cưới với bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương hoàng hậu), không lâu sau ông vua này lại đi “du hí” khắp nơi. Có lần lên Đà Lạt thăm thú cô nhân tình da trắng mắt xanh, Bảo Đại bị ông chồng Tây của cô ta nổi cơn ghen, vác súng đuổi bắn gẫy chân khiến cho Toàn quyền Đông Dương là Jean Decoux vội cho máy bay chở vua về Sài Gòn chữa trị và tuyên bố rằng vua đi săn, bị “vấp ngã xuống hố bẫy cọp”. Vì chuyện này mà một viên quan về hưu đã làm bài thơ trào phúng, trong đó có câu: “Bà đầm chuộng lạ cần gia vị/Hoàng thượng ăn quen hẳn bén mùi/Thôi Chử ngày xưa còn thí mạng/Nữa là chỉ mất tý xương thôi”.
Tính trăng hoa của Bảo Đại không chỉ gây rắc rối cho ông mà còn khiến một số người khác bị vạ lây. Tác giả Lucien Bodart trong cuốn sách Chiến tranh Đông Dương – Sự nhục nhã (xuất bản năm 1973 tại Paris) có đoạn viết: “Nam Phương ghen tuông đã có ý định cho lái xe bắn lén vào những kẻ đang tình tự ở Đà Lạt. Bà Decoux, vợ quan Toàn quyền đã phải hi sinh thân mình trong vụ đáng buồn này. Bà đã đi nhanh đến chỗ hẹn hò để ngăn một vụ án mạng có thể xảy ra”.

Án mạng thì không xảy ra nhưng phu nhân Toàn quyền vì phóng xe quá nhanh để ngăn vụ bắn Bảo Đại và người tình nên đã thiệt mạng vì tai nạn. Bà được chôn tại khuôn viên nhà thờ Vinh Sơn (nay nằm trên đường Ngô Quyền, phường 6, TP Đà Lạt ).

Lý Thái Tổ có đến…9 bà hoàng hậu
Thái Tổ Lý Công Uẩn, vị hoàng đế sáng lập vương triều Lý, có một “kỷ lục” mà không một vị vua nào trong lịch sử Việt Nam phá được: ông là vị vua lập nhiều hoàng hậu nhất. Sau khi lên ngôi (1009), Lý Thái Tổ đã cho lập 6 hoàng hậu. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Lập 6 hoàng hậu, duy có đích phu nhân gọi là hoàng hậu Lập Giáo, quy chế xe kiệu và y phục khác hẳn với các cung khác”.
Đến tháng 3 năm 1016, Lý Thái Tổ lại lập thêm 3 hoàng hậu nữa là Tá Quốc hoàng hậu, Lập Nguyên hoàng hậu, Lập Giáo hoàng hậu. Như vậy tổng cộng là 9 hoàng hậu. (Ở đây sử chép 2 lần về Lập Giáo hoàng hậu, theo sách Việt sử thông giám cương mục: "Điều này chắc sử có lầm, tạm chép lại đó chờ tra cứu thêm").
Trong số các bà hoàng hậu của Lý Thái Tổ, có một người là con gái của vua Lê Đại Hành (theo dã sử bà tên là Phương Hoa, mẹ đẻ chính là bà Dương Vân Nga).  Bà hoàng hậu này đã sinh con trai trưởng cho vua là Lý Thái Tông.

Trần Thái Tông truy tôn vợ như…mẹ?
Tháng giêng năm 1237, Thái sư Trần Thủ Độ thấy Trần Thái Tông lấy Chiêu Thánh hoàng hậu (tức Lý Chiêu Hoàng) nhiều năm rồi mà vẫn chưa có con, ông bèn ép vua phế Chiêu Thánh xuống làm công chúa. Sau đó lại ép vua lấy chị dâu của mình là công chúa Thuận Thiên (vợ Trần Liễu, anh trai vua) khi đó đang có mang 3 tháng và lập làm Thuận Thiên hoàng hậu.
Thuận Thiên hoàng hậu sau này đã sinh cho Trần Thái Tông một số người con là Trần Quốc Khang (thực ra là con Trần Liễu), Trần Hoảng (tức Trần Thánh Tông), Trần Quang Khải…Tháng 6 năm 1248, bà Thuận Thiên mất, Trần Thái Tông truy tôn vợ mình làm Hiển Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu. Vì chuyện này mà sử sách đã chê cười vì tôn hiệu Hoàng thái hậu chỉ dùng để phong cho người là mẹ vua mà thôi.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục dẫn lại lời phê của hai sử thần nhà Lê như sau: “Cả một đời nhà Trần vẫn gọi là đời không có nghi lễ. Việc truy tôn Lý hậu làm Hoàng Thái hậu dễ thường cũng có; hành động sai lầm như vậy, thật đáng chê cười!” (Lời bàn của Ngô Thì Sĩ). “Hoàng hậu Lý Thị nguyên là vợ An Sinh vương Liễu, Thái Tông nhân khi Lý thị đã có thai, cướp lấy làm vợ mình, như thế đã thương luân bội lý lắm rồi, lúc mất lại tôn là Thái hậu, thì còn có nghĩa lý gì? Có lẽ sau này Thánh Tông lên nối ngôi vua, mới truy tôn Lý Thị là mẹ đẻ của mình, mà nhà làm sử đem chép lầm ở đây, cũng chưa biết chừng. Nếu không thế thì cướp chị dâu làm vợ, tôn vợ lên như mẹ, lại còn có nhân đạo gì nữa ư?” (Lời bàn của Nguyễn Nghiễm).

Lê Lợi  là con rể của vua Trần Duệ Tông
Đầu năm Đinh Tị (1377) Trần Duệ Tông, vị vua thứ 10 của nhà Trần, trong một trận đánh với quân Chiêm Thành đã chết trong đám loạn quân. Đến khi quân Minh xâm lược, vợ vua Trần Duệ Tông là Hoàng hậu Bạch Ngọc đem con gái là công chúa Huy Chân về quê ngoại ở Thổ Hoàng (này thuộc huyện Hương Khê, Hà Tĩnh) để lánh nạn.
Tại quê hương bà đã chiêu mộ nhân dân, khai hoang lập ấp. Bấy giờ Lê Lợi đã phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Bà Bạch Ngọc đem ủng hộ nghĩa quân không chỉ nhân lực, lương thực, khí giới, tiền của mà còn gả con gái Huy Chân cho Lê Lợi. Sau khi lên ngôi hoàng đế, Lê Lợi đã phong Huy Chân làm phi.

Mạc Đăng Dung giết anh em cọc chèo để cướp ngôi
Tháng 6 năm 1527 Mạc Đăng Dung dẫn quân từ Hải Dương về Thăng Long ép vua Lê Cung Hoàng nhường ngôi cho mình bằng một bài chiếu giả mạo. Sau đó giam cầm vua rồi bức tử.
Chuyện thoán đoạt ngôi vị sử chép rõ, nhưng không mấy người biết rằng ông vua bị giết và kẻ giết vua lại là anh em “cọc chèo” với nhau. Hai người này đều là con rể của đại thần Nguyễn Thì Ung. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Thì Ung có hai người con gái, một người tiến cho Thống Nguyên đế (tức Lê Cung Hoàng-TG), một người gả cho Mạc Đăng Dung, sau được phong làm Thông quận công”.

Vua Thái Đức có một người vợ người Bana

Trong số các bà vợ của vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc), có một người thuộc dân tộc Bana. Từ trước khi khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc đã nhiều lần đến các vùng đất của Tây Nguyên để buôn trầu, mua gỗ, mua ngựa…Ông kết thân với một cộng đồng người Bana ở đây và họ đã gả một người con gái tên là Ya Dố cho ông.

Theo một số tài liệu viết về nhà Tây Sơn, bà Ya Dố còn được gọi là Cô Hầu, con gái của một tộc trưởng ở Plây Đê Hmâu (nay thuộc xã Đông, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai). Bà đã giúp Nguyễn Nhạc trong việc chiêu mộ quân lính thuộc các dân tộc Tây Nguyên, khai hoang ruộng đất ở nhiều nơi để trồng cây trái làm lương thực nuôi quân. Bà được gọi là Cô Hầu đốc tướng. Nay vùng đất mà bà trực tiếp tổ chức khai khẩn khi xưa (thuộc làng Tú Thủy, xã Nghĩa An, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai ngày nay) vẫn được gọi là “Cánh đồng Cô Hầu”

Bố, con và kẻ thù không đội trời chung lại là anh em cọc chèo

Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) lấy công chúa Ngọc Hân và trở thành con rể vua Lê Hiển Tông. Khi con cả của Quang Trung là Quang Toản (tức vua Cảnh Thịnh) đến tuổi lập gia đình, công chúa Ngọc Hân đã làm mối cho người em gái út của mình là công chúa Ngọc Bình. Vậy là hai bố con vua Quang Trung lấy hai chị em gái và trở thành “anh em cọc chèo” của nhau.

Chuyện đời lắm nỗi éo le, năm Nhâm Tuất (1802) sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long. Khi chiếm được Phú Xuân, rung động trước sắc đẹp của Ngọc Bình, ông đã lấy bà làm phi, phong làm đệ tam cung. Thế là Quang Trung và Gia Long, hai kẻ không đội trời chung ấy lại là “anh em cọc chèo”. Về bà Ngọc Bình, trước những mối lương duyên lạ kỳ đó, dân gian đã đạt câu ca rằng: “Số đâu có số lạ đời/Con vua mà lại hai đời chồng vua”.
Vua Cảnh Thịnh bị bắt giữ bởi một người điên
Vua Cảnh Thịnh tên thật là Nguyễn Quang Toản, con trưởng của vua Quang Trung. Đến giữa năm Nhâm Tuất (1802) liên tiếp thất bại trước các cuộc tấn công của quân Nguyễn Phúc Ánh, Quang Toản phải bỏ kinh đô Phú Xuân, chạy ra Bắc rồi bị bắt và bị xử tử thảm khốc.
 Ít người biết rằng mặc dù truy lùng gắt gao nhưng quân Nguyễn Phúc Ánh không bắt được vua Cảnh Thịnh mà phải nhờ đến sự trợ giúp của một “người điên” cầm đầu một đám ăn mày ở Lạng Giang (nay thuộc huyện Lạng Giang, Bắc Giang). Sách Quốc sử di biên viết: “Tổng trưởng An Mẫu là Vũ Thám và Trần Huy Dao ở Kinh Than đem hào mục hai huyện Phượng Nhãn, Lục Ngạn đến vây, 3 ngày không bắt được… Toản, Thiệu cưỡi voi vào ẩn trong rừng sâu. Lúc ấy có tên “thị cuồng” (kẻ điên ở chợ) hét voi đứng lại, tổng Thám sấn vào, bắt được Toản, Thiệu đem dâng đại quân… Tên “thị cuồng” trước trú ngụ ở chợ Thương, nuôi vài mươi kẻ ăn xin, sớm tối cầm canh, đánh kẻng sành để làm hiệu lệnh. Đến bây giờ được thưởng 3 mẫu ruộng, được ban tên là Trung Nghĩa”.

Vua Lê Lợi  từng “núp váy đàn bà”

Thời còn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ ách đô hộ của quân xâm lược, có lần bị thua trận, binh tướng tan tác hết, chỉ còn một mình, Lê Lợi bị giặc Minh đuổi theo ráo riết. Chạy đến bờ đê ven một ngôi làng bên bờ sông Mã, ông thấy có một quán nước liền vào hỏi thăm đường và nói rõ tình cảnh của mình. Cụ bà bán nước biết tình thế rất nguy mới nói rõ mọi ngả đường quanh đó đều bị quân giặc án ngữ cả, không còn lối thoát. Bà nói, nếu không tị hiềm gì thì chỉ còn cách để ông ngồi núp sau lưng mình rồi trùm váy lên che kín, nhờ vậy mà giặc Minh đi qua không nghi ngờ gì, bà cụ còn chỉ hướng sai cho chúng đuổi bắt trong vô vọng.
Sau này, khi sự nghiệp đã thành, nhớ ơn bà cụ bán nước, vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đã đón về Thăng Long phụng dưỡng, tôn làm Quốc mẫu. Khi bà mất, vua cho làm lễ tang trọng thể và xây ngôi đền thờ phụng gọi là đền Quốc mẫu; ngôi đền này nay vẫn còn ở xã Hoằng Xuân, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá. Theo dã sử địa phương, bà cụ tên thật là Hà Thị Diệu Cai, quê ở thôn Quan Nội (nay thuộc xã Hoằng Anh, huyện Hoằng Hoá).

Trần Anh Tông dùng… chân cứu nhiều người thoát chết đuối
Năm Nhâm Tý (1312) vua Trần Anh Tông dẫn quân Nam chinh đánh Chiêm Thành thắng trận. Khi trở về ông cho làm lễ thắng trận lại các lăng vua đời trước ở phủ Long Hưng (nay thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình). Sau đó vua cùng đoàn tùy tùng theo đường thủy trở lại Thăng Long.

Chuyến đi này đã gặp trở ngại và câu chuyện vua dùng chân cứu người được sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết như sau: “Khi về đến sông Thâm Thị (một đoạn sông Hồng chảy qua huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay- TG), bỗng gặp mưa gió sấm chớp, ban ngày mà tối đen như đổ mực, trong khoảng gang tấc cũng không nhìn thấy nhau. Dây buộc thuyền đều bị đứt cả, thuyền ngự chìm ở giữa dòng. Vua bám lấy đầu thuyền leo lên mui, lấy chân cho các cung nữ, nữ quan bám lấy để cùng leo lên mui.”

Sợ giặc cướp bóc, vua Phế Đế mang tiền đi giấu
Vị vua bị sử sách chê cười về hành động này là Trần Phế Đế, ông là vua thứ 11 của nhà Trần, tên thật là Trần Hiện, do bị phế truất nên sử thường gọi là Phế Đế.
Thời gian trị vì của Trần Phế Đế, triều chính bất ổn, đất nước suy vi, cướp bóc nổi lên nhiều nơi, lân bang xâm lấn. Vào năm Mậu Ngọ (1378) quân Chiêm Thành từ phía nam tấn công ra bắc, chiếm được cả Thăng Long, cướp bóc đốt phá hết rồi mới rút… Lo sợ giặc cướp, năm Kỷ Mùi (1379) vua Trần Phế Đế đã hai lần sai người mang tiền đi giấu, sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Tháng 9, sai quân dân chở tiền đồng giấu vào núi Thiên Kiện (núi Thiên Kiện trước gọi là núi Địa Cận, tục truyền có cây tùng cổ, rồng quấn ở trên, Trần Thái Tông dựng hành cung ở đó). Mùa đông, tháng 10, giấu [tiền] ở khám Khả Lãng thuộc Lạng Sơn, là vì sợ nạn người Chiêm đốt cung điện”.
Sử thần nhà Hậu Lê là Ngô Sĩ Liên đánh giá về việc này như sau: “Thiên tử có cả bốn biển, kho tàng phủ khố đâu chẳng phải là của mình? Đương khi nước nhà nhàn hạ thì làm tỏ chính hình, sửa sang lễ nghĩa, ví như con chim đi lấy rễ dâu ràng buộc cửa tổ (ý nói phải đề phòng sự biến lúc chưa xảy ra), thì ai làm nhục mình được? Thế mà sợ tai nạn Chiêm Thành đốt cướp, đem chở tiền của giấu tận hang cùng núi thẳm, làm kế tránh giặc, thực là nhử giặc đến, chuốc lấy tiếng chê cười của đời sau” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Vua Gia Long được xóm “cái bang” cứu giúp
Vị vua sáng lập vương triều Nguyễn là Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh) khi đánh với quân Tây Sơn đã nhiều lần thất bại, bị truy đuổi gay gắt và không ít lần rơi vào hoàn cảnh quấn bách, nguy khốn nhưng đều may mắn được cứu giúp.
Thú vị nhất là chuyện Nguyễn Phúc Ánh được những người ăn mày thuộc một xóm “cái bang” giúp đỡ qua cơn hoạn nạn. Một lần thua trận, chỉ còn một thân một mình Nguyễn Phúc Ánh trốn vào khu cư ngụ của đám ăn mày ở làng Nhơn Ngãi ngoại thành Gia Định (nay thuộc phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, TP HCM). Không rõ vì biết thân thế hay vì cảm thương một người sắp lâm vào cảnh chết chóc, hoặc cũng có thể do tính nghĩa hiệp mà họ đã ra tay cứu giúp Nguyễn Phúc Ánh.
Những người ăn mày đưa ông đi ẩn nấp rồi gọi cả nhóm “cái bang” la hét ầm ĩ, đánh trống, đập thùng, gõ xoong chảo... làm như nơi đây có binh hùng tướng mạnh khiến cho toán quân Tây Sơn đang truy đuổi sợ gặp phục binh của chúa Nguyễn bèn rút lui.Về sau, khi đã lên ngôi hoàng đế, nhớ tới ơn xưa, vua Gia Long đã ban thưởng cho những người ăn mày từng cứu giúp mình. Ông cho phép họ lập thành xóm rồi ban cho ba chữ Tân Lộc Phường lấy làm tên xóm.

Vua Tự Đức lấy trẻ con làm lính thị vệ
Lính thị vệ là những người bảo vệ vua được tuyển chọn rất cẩn thận. Họ phải đảm bảo ít nhất hai yêu cầu: tuyệt đối trung thành và giỏi võ nghệ. Thế nhưng có trường hợp đặc biệt, vua Tự Đức đã đặc cách phong hai đứa trẻ làm thị vệ.
Bấy giờ, vào năm Kỷ Mùi (1859), ở Quảng Trị có một khu trại tre rộng hơn một mẫu, có rất nhiều chim về làm tổ. Biết vua thích săn bắn, các quan địa phương đã niêm yết cấm dân thường vào đó phá phách, để dành riêng nơi đây cho vua hàng năm ra săn bắn. Một lần vua Tự Đức ra Quảng Trị, ông không muốn kinh động nên truyền cho tùy tùng đứng ở xa đợi, còn vua mặc thường phục, một mình mang súng vào bắn chim. Bỗng đâu xuất hiện hai đứa bé chăn trâu chừng 11- 12 tuổi, chúng giằng súng, níu áo không cho bắn, nói là làm như thế cả làng sẽ bị tội và cho biết ở đây chỉ có vua được bắn chim thôi.
Vua Tự Đức rất bất ngờ, ông liền quay ra gọi các quan và sai trở về kinh, mang theo 2 đứa trẻ , phong chúng làm Ngũ đẳng thị vệ. Vua còn ban tiền bạc khen ngợi cha mẹ chúng vì đã đẻ con có nghĩa, biết dạy con lòng trung thành.

Mạc Mậu Hợp mưu giết bề tôi để cướp vợ; vua Hàm Nghi hai lần làm lễ lên ngôi; Giản Định Đế bị bắt làm Thái thượng hoàng... là những chuyện lạ của các vị vua Việt Nam kỳ này
Mạc Mậu Hợp mưu giết bề tôi để cướp vợ
Ở ngôi 30 năm (1562-1592), Mạc Mậu Hợp là người làm vua lâu nhất trong số các vua Mạc thời hưng thịnh. Tuy nhiên cũng chính ông vua này khiến cho cơ nghiệp của họ Mạc suy vong. Và một trong các nguyên nhân chính là thói hoang dâm hiếu sắc của ông.
Nếu như trong lịch sử Trung Quốc có không ít chuyện các hôn quân, bạo chúa cướp vợ của thần dân, con em hoàng tộc hoặc bề tôi của mình để thỏa mãn dục vọng thì lịch sử Việt Nam chỉ duy nhất có vua Mạc Mậu Hợp là dám làm chuyện như vậy. Ông đã lập kế định giết một danh tướng trong triều để cướp vợ khiến cho một bộ phận binh lực nhà Mạc đã theo viên tướng này về quy phục vua Lê làm cho thế lực của Mạc Mậu Hợp ngày càng suy yếu. Sự việc này xảy ra vào cuối năm Nhâm Thìn (1592). Sách Lê triều thông sử viết: “Vợ viên trấn thủ Nam đạo Sơn quận công Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên, tức con gái Nguyễn Quyện. Chị gái của Thị Niên là hoàng hậu của Mậu Hợp vì thế Thị Niên thường được ra vào trong cung. Mậu Hợp thấy Thị Niên, đem lòng yêu mến bèn ngầm tính kế giết Văn Khuê để cướp vợ y”.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết rõ hơn: “Chúa Mạc là Mậu Hợp ngày ngày say đắm tửu sắc. Nguyễn thị là con gái của Nguyễn Quyện và là vợ Bùi Văn Khuê, nhân có em gái là vợ của Mạc Mậu Hợp, nên thường ra vào trong cấm cung. Mậu Hợp ưng ý Nguyễn thị vì nàng có nhan sắc, nên muốn giết Văn Khuê để chiếm lấy nàng. Văn Khuê biết chuyện, bèn đem quân bản bộ tự ý rút về Gia Viễn, đóng binh một chỗ, không chịu vào chầu. Mậu Hợp sai quân đến bức bách để bắt Văn Khuê sai con trai là Văn Nguyên chạy vào Thanh Hoa, dâng lễ đầu hàng và xin cứu viện. Trịnh Tùng ưng nhận cho hàng và mừng rỡ nói: Văn Khuê đầu hàng, thế là trời giúp cho ta được chóng thành công. Đất đai bản triều có thể hẹn ngày khôi phục được”.

Vua Hàm Nghi hai lần làm lễ lên ngôi

Hàm Nghi là vị vua yêu nước thời Nguyễn, ông tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Lịch được triều thần đứng đầu là Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi sau khi anh trai của ông là vua Kiến Phúc đột ngột qua đời đầy bí ẩn.

Lễ đăng quang của vua Hàm Nghi diễn ra vào ngày 02/8/1884, triều đình Huế không thông báo sự kiện này cho phía Pháp như theo thỏa luận trong Hòa ước Giáp Thân (06.6.1884), do đó đại diện Pháp là Khâm sứ Trung kỳ Rheinart không thừa nhận. Để gây sức ép buộc triều đình Huế phải tổ chức lễ đăng quang lại với sự có mặt của đại diện Pháp, ngày 16/8/1884, Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp lúc đó là tướng Millot đã sai đại tá Guerrier đem 600 lính và 2 cỗ pháo đến uy hiếp và hạn sau 12 tiếng đồng hồ phải tổ chức lại lễ đăng quang.
Dù phải nhượng bộ nhưng phải đến 9 giờ sáng 18/8/1884 triều đình Huế mới tổ chức lại lễ lên ngôi cho Ưng Lịch với sự hiện diện của Rheinart, Guerrier, 25 sĩ quan và 160 lính Pháp. Thay mặt Chính phủ Pháp, Guerrier đọc diễn văn (do Rheinart soạn sáng sớm hôm đó) công nhận Ưng Lịch là hoàng đế của nước Đại Nam.

Giản Định Đế bị bắt làm Thái thượng hoàng
Thái thượng hoàng là ngôi vị mang nghĩa "vua bề trên". Danh hiệu này được dùng từ khi người đó nhường ngôi vua cho con trai, cháu trai, hoặc em trai, cho đến khi qua đời. Tuy nhiên trong lịch sử nước ta, cũng có một số trường hợp tuy không làm vua nhưng vẫn được tôn làm Thái thượng hoàng như Sùng Hiền Hầu thời Lý, Trần Thừa thời Trần… Chế độ Thái thường hoàng có từ thời Lý, trải qua các triều Trần, Hồ, Hậu Trần, Mạc, Lê Trung Hưng có tổng cộng 17 người ở trên ngôi vị này, trong số đó có duy nhất trường hợp của Giản Định Đế là bị bắt phải làm Thái thượng hoàng.
Giản Định đế tên húy là Trần Ngỗi, còn có tên khác là Trần Quỹ, vị vua đầu tiên của nhà Hậu Trần, được dựng lên trong thời kỳ đầu chống ách đô hộ của giặc Minh xâm lược. Vì vua giết oan trung thần nên con Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị, con Đặng Tất là Đặng Dung đều căm giận mới đem quân về Thanh Hóa rước cháu của Giản Định đế là Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lập làm vua, lấy niên hiệu là Trùng Quang. Để thống nhất lực lượng kháng chiến, vua Trùng Quang sai Thái phó Nguyễn Súy đem quân đánh thành Ngự Thiên (nay thuộc Hưng Nhân, Thái Bình) bắt được Giản Định đế đưa về Nghệ An vào ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Sửu (1409), “tôn lên làm Thượng hoàng, cùng chung sức đánh giặc” ( Đại Việt sử ký toàn thư). Sự kiện này cũng được sách sử phương Bắc chép, sách Nguyên sử viết: “Bấy giờ bọn Nguyễn Súy suy tôn Giản Định làm Thái Thượng hoàng, lập riêng Trần Quý Khoáng làm vua, đặt niên hiệu là Trùng Quang”.
Mặc dù bị bắt làm Thái thượng hoàng nhưng Giản Định đế cũng không có phản ứng gì tiêu cực mà vẫn hăng hái đánh giặc cho đến khi bị chúng bắt được vào tháng 7 năm Kỷ Sửu (1409) đưa về phương Bắc giết hại. Giản Định đế là vị Thái Thượng hoàng duy nhất của thời Hậu Trần và ở ngôi ngắn nhất tronng lịch sử (gần 4 tháng).

 Lê Thế Tông xuất ngoại qua biên giới hội đàm

Quan hệ ngoại giao giữa các vương triều nước ta và các triều đại phong kiến phương Bắc hầu hết đều thông qua các sứ thần, các đoàn sứ bộ, thế nhưng có một trường hợp đặc biệt xảy ra thời Lê Thế Tông. Vị vua thứ 15 của nhà Hậu Lê này đã đích thân xuất ngoại qua ải Nam Quan sang đất Trung Quốc hội đàm.

Khi ấy, tàn dư họ Mạc dựa thế của nhà Minh vẫn quấy rối, cát cứ ở đất Cao Bằng. Một mặt nhằm hạn chế sự ủng hộ của nhà Minh với lực lượng của Mạc Kính Dụng, mặt khác muốn nhà Minh phải thừa nhận danh nghĩa chính thống của nhà Lê nên vua Lê Thế Tông đã thực hiện chuyến đi ngoại giao hiếm có trong lịch sử vào năm Đinh Dậu (1597). Sách Lê triều thông sử cho biết: “Ngày 10 tháng 4, vua qua cửa trấn Nam Quan, cùng với quan đạo Tả Giang và quan các phủ Tư Minh, Thái Bình thuộc Quảng Tây nhà Minh hội kiến, biện minh các lẽ rõ ràng, làm tờ kết ước. Rồi vua sai Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Nhân Thiệm làm sứ giả đi Yên Kinh dâng sản vật địa phương…”.

Đời vua Tự Đức từng có  đại diện ngoại giao của Tây Ban Nha
Thời Nguyễn, quan hệ ngoại giao của nước ta không chỉ bó hẹp với các quốc gia láng giềng phương Đông mà với các quốc gia Tây phương quan hệ cũng được mở rộng hơn so với thời Lê Trung Hưng.

Đã có những tiếp xúc giữa Đại Nam với các quốc gia Mỹ, Anh… nhưng do những lý do khác nhau, quan hệ ngoại giao chưa được xác lập chính thức. Tuy nhiên có một đại diện ngoại giao chính thức của phương Tây đã được đặt ở nước ta, đó là đại diện của Tây Ban Nha. Ngày 9 tháng 7 năm 1881, Don Tiburcio Rodriguez đặt chân đến thành Gia Định (Sài Gòn) với cương vị Đại sứ Toàn quyền của Tây Ban Nha ở Đại Thanh (Trung Quốc), Xiêm La (Thái Lan) và Đại Nam (Việt Nam).
Bấy giờ quân Pháp đang đẩy mạnh chiến tranh xâm lược nước ta, nhiều vùng đất ở miền Đông và miền Tây Nam bộ lần lượt bị giặc chiếm đóng, vì vậy một mặt quân Pháp ở Gia Định uy hiếp đại diện ngoại giao của Tây Ban Nha, mặt khác chính phủ Pháp phản đối quyết liệt việc Tây Ban Nha thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Đại Nam ở cấp đại sứ, cuối cùng Tây Ban Nha buộc phải bãi bỏ cơ quan đại diện ở nước ta. Mối quan hệ ngắn ngủi giữa Đại Nam và Tây Ban Nha thời vua Tự Đức đã kết thúc nhanh chóng như vậy.
Những điều lý thú về các vị vua Việt Nam không chỉ được truyền tụng trong giai thoại dân gian, dã sử mà còn được chính sử ghi chép với không ít chi tiết độc đáo, lạ kỳ.

Lê Thánh Tông đã hạ nhục bề tôi như  thế nào?

Là một minh quân nổi tiếng nhưng đã có lúc do không kiềm chế được sự tức giận, vua Lê Thánh Tông đã có hành động hạ nhục bề tôi một cách... bất ngờ.
Bấy giờ vào cuối năm Canh Dần (1470), vua Chiêm là Trà Toàn liên tục cho quân quấy phá biên cương, sỉ nhục sứ thần Đại Việt. Vua Chiêm còn cho sứ sang nhà Minh vu cáo nước ta cướp hết đồ cống của nước Chiêm dâng cho nhà Minh; tâu thêm là vua Lê tự xưng là Hoàng đế, ngang với Thiên tử nhà Minh, chuẩn bị binh mã để thôn tính bờ cõi Bắc triều. Vì thế, Lê Thánh Tông đã dẫn hơn 70 vạn quân Nam chinh phạt Chiêm.
Khi đại quân đến đất Nghệ An, một số viên quan làm không đúng chức phận khiến Lê Thánh Tông nổi giận trừng phạt. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết như sau: “Bọn Án sát sứ Đinh Thúc Thông, Phạm Vĩnh Dụ, Bùi Thúc Sử, Nguyễn Tài tâu bàn càn bậy. Vua cho gọi đến hành tại hỏi về tội hủ nho làm hỏng việc, bắt bỏ mũ xuống đái vào mũ để làm nhục”.

Vua Kiến Phúc buộc người đỗ đạt phải ra làm việc
Vua Kiến Phúc là vị vua thứ 7 của nhà Nguyễn, người ta thường gọi ông theo niên hiệu chứ ít ai biết miếu hiệu của ông là Nguyễn Giản Tông. Vị hoàng đế này ở ngôi 8 tháng thì mất đột ngột vào ngày mồng 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884) thọ 15 tuổi.
Trước khi mất không lâu, vào tháng 2 năm đó vua Kiến Phúc đã ra một quyết định chưa từng có trong lịch sử, buộc tất cả những người từng đỗ đạt đều phải ra làm việc tại các nha môn, công đường trên cả nước. Trong tờ dụ của mình nhà vua yêu cầu tất cả những người ở kinh đô và các tỉnh, đã đỗ tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, tú tài đều phải ra làm việc kể cả những người đã từng làm quan nhưng đã từ quan về quê; những người đã đỗ nhưng viện cớ không chịu ra làm quan.
Để triệt để thi hành, vua lệnh cho các quan lại địa phương phải có trách nhiệm cấp ngựa triệu họ về kinh; ai vì ốm đau chưa về được, quan địa phương phải phái người đến tận nơi điều tra thực hư. Ai không tuân theo dụ này sẽ bị tước bỏ văn bằng; quan địa phương không khai báo nghiêm túc có ý che dấu, sẽ bị nghiêm trị. Ngoài ra, vua còn cho ngựa đi đón những người có khoa bảng nhưng đã bị giáng chức, cách chức đưa về kinh chờ lệnh bổ dụng.

Giấc mộng giáng sinh lạ kỳ vua Khải Định
Các vị quân vương xưa luôn coi mình có xuất thân tôn quý, được xưng tụng là “thiên tử” (con trời). Thế nên người đời và sử sách đã đặt ra nhiều thuyết lạ với những chi tiết li kỳ bao quanh sự ra đời của những vị vua để tăng thêm vẻ uy nghi, oai dũng của họ nhằm quy phục và cố kết lòng người trong thiên hạ.
Các câu chuyện nhuốm màu huyền bí đó thường đều do sử sách và người đời thêu dệt, chứ không có một vị vua nào tự nói về điều này, ngoại trừ ông vua bù nhìn Khải Định.
Trong một bản dụ ban bố với toàn quốc ngày 2 tháng 9 năm Bính Thìn (1916), vua Khải Định “khoe” rằng: “Tháng 9 năm Ất Dậu niên hiệu Đồng Khánh, Tiên mẫu bấy giờ đang có thai sắp sinh nở, ban đêm buồn ngủ chợt mộng thấy Long thần chui từ dưới đất lên, nước từ vòi phun ra ướt hết cả trong cung. Lát sau lại có bốn vị Thiên quan áo mũ cực kỳ chỉnh tề đứng thành hai hàng nghênh đón một đồng tử áo vàng, tóc dài rủ xuống, cùng bước lên bàn hương. Rồi vị đồng tử đó nhập vào bụng Tiên mẫu mà biến mất. Tiên mẫu hoảng hốt bừng tỉnh, rồi sau đó sinh ra quả nhân” (Theo Khải Định chính yếu sơ tập).

Lý Anh Tông, hoàng đế đầu tiên đi tuần biển Đông
Trong khi nhiều quốc gia lân bang cùng thời kỳ chỉ quan tâm đến lãnh thổ trên đất liền, các triều đại phong kiến Việt Nam đặc biệt chú trọng đến biển, không chỉ nhằm khai thác hải sản và các nguồn lợi khác từ biển mà còn từng bước xác lập chủ quyền trên các hải đảo. Thậm chí có vị vua còn đi tuần thú ra biển để xem xét và người đầu tiên thực hiện việc đó là Lý Anh Tông, hoàng đế thứ 6 của triều Lý.
Sử chép rằng, vào tháng 11 năm Tân Tị (1161) vua sai Thái úy Tô Hiến Thành “đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển miền Tây Nam để giữ yên bờ cõi xa” ( Đại Việt sử ký toàn thư). Năm Tân Mão (1171) “vua đi tuần ra cù lao ngoài biển, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết sự đau khổ của nhân dân và đường đi xa gần thế nào”; tháng 2 năm Nhâm Thìn (1172) “vua lại đi tuần ra cù lao ngoài biển ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ và ghi chép phong vật rồi về” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Qua các lần đi này, vua Lý Anh Tông đã soạn một cuốn sách lấy tên là “Nam Bắc phiên giới đề”.


Trần Thánh Tông tranh áo với anh
Vua có mọi thứ trong thiên hạ mà lại đi tranh một chiếc áo với anh mình thì kể cũng là chuyện lạ. Câu chuyện này liên quan đến vị hoàng đế thứ 2 của nhà Trần là Trần Thánh Tông, xảy ra vào năm tháng 10 năm Mậu Thìn (1269)

Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết cụ thể như sau: “Mùa đông, tháng 10, vua cùng anh là Tĩnh Quốc đại vương Quốc Khang cùng vui đùa trước mặt Thượng hoàng (tức Trần Thái Tông – TG). Thượng hoàng lúc bấy giờ mặc áo vải bông trắng. Tĩnh Quốc múa điệu múa của người Hồ, Thượng hoàng cởi áo ban cho Quốc Khang. Vua cũng múa điệu múa của người Hồ để xin chiếc áo ấy. Quốc Khang nói: ‘Cái quý nhất là ngôi hoàng đế, hạ thần còn không tranh với chú hai. Nay đức chí tôn ban cho thần một vật nhỏ mọn mà chú hai cũng muốn cướp lấy chăng?’. Thượng cả cười nói: ‘Thế ra mày coi ngôi vua với cái áo xoàng này chẳng hơn kém gì nhau’. Khen ngợi hồi lâu rồi (thượng hoàng) cho Tĩnh Quốc chiếc áo ấy”.

Hồ Quý Ly xưng đế khi còn chưa lên ngôi
Trong kế hoạch từng bước cướp ngôi của nhà Trần, tháng 3 năm Mậu Dần (1398), Hồ Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Trần Án mới hơn 2 tuổi, rồi lại ép vua đi tu theo đạo Lão. Thái tử lên ngôi ngày 15 tháng 3 nhưng còn quá nhỏ nên sử sách sau này thường gọi là Trần Thiếu Đế.

Từ đó toàn bộ chuyện quốc gia đại sự đều do Hồ Qúy Ly quyết, ông tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt đại vương nhưng trên các văn bản ban lệnh thì đề là Trung thư thượng thư sảnh phụng nhiếp chính cai giáo hoàng đế thánh chỉ.
Tháng 3 năm Canh Thìn (1400) Hồ Qúy Ly cướp ngôi của cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, lập ra triều Hồ và lấy quốc hiệu là Đại Ngu. Thế nhưng vào tháng 6 năm Kỷ Mão (1399) ông đã xưng đế, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Tháng 6, Quý Ly tự xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng đế, mặc áo màu bồ hoàng (màu vàng như nhị hoa xương bồ - TG), ở cung Nhân Thọ, ra vào theo lệ thiên tử, dùng 12 chiếc lọng vàng”.

Không chỉ kiên quyết bảo vệ lãnh thổ trên đất liền, các triều đại phong kiến Việt Nam đã  xác định hải giới và chú trọng bảo vệ chủ quyền trên biển.
Việc khai thác, xác lập chủ quyền và quản lý lãnh thổ trên biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa , Trường Sa đã được cha ông ta tiến hành từ lâu đời. Nhiều vị hoàng đế nước Việt không chỉ coi trọng điều này vì lợi ích kinh tế mà đặc biệt hơn là vì tầm quan trọng về an ninh quốc phòng. Trong sách Đại Nam nhất thống chí đời Nguyễn đã viết: “Phía Đông có dải đảo cát nằm ngang (Hoàng Sa đảo) liền với biển xanh làm hào che, phía Tây khống chế vùng Sơn Man có lũy đá dài chồng chất giữ cho vững vàng, phía Nam kề bên tỉnh Bình Định, có sườn núi Bến Đá làm mũi chặn ngang, phía Bắc tiếp giáp tỉnh Quảng Nam, có ghềnh sa có thể làm giới hạn”.
Không chỉ kiên quyết bảo vệ lãnh thổ, đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm, lấn chiếm trên đất liền, các triều đại phong kiến Việt Nam kể từ khi giành quyền tự chủ lâu dài còn xác định hải giới và chú trọng bảo vệ chủ quyền trên biển.


Đời Lê Đại Hành đã xác định biên giới trên biển của nước Việt
Hải giới của nước ta với phương Bắc đã được xác định từ lâu, nhưng sử liệu lần đầu đề cập đến “hải giới” một cách trực tiếp là vào năm Canh Dần (990) khi sứ Tống sang, vua Lê Đại Hành “sai Nha nội chỉ huy sứ là Đinh Thừa Chính đem 9 chiếc thuyền dẫn 300 người đến Thái Bình Quân để đón” (Đại Việt sử ký toàn thư). Trong cuốn Hành lục tập, sứ giả Tống Cảo cũng thừa nhận điều này: “Cuối thu năm ngoái, bọn Cảo chúng tôi đi đến hải giới Giao Chỉ, Nha nội đô chỉ huy sứ của Hoàn là Đinh Thừa Chính đem 9 chiến thuyền và 300 quân đến Thái Bình Trường để đón. Từ cửa sông đi ra biển lớn, xông pha sóng gió, trải bao nguy hiểm, đi nửa tháng trời đến sông Bạch Đằng...”.
Thái Bình Quân hay Thái Bình Trường là đơn vị hành chính thời Tống, sau đổi là Liêm Châu (nay là tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc).

Lê Thánh Tông đã đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào bản đồ Đại Việt
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thời xưa thường được cha ông ta coi là một dải đảo dài nên gọi chung bằng các tên khác nhau như Bãi Cát Vàng, Cồn Vàng, Vạn lý Hoàng Sa, Vạn lý Trường Sa, Đại Trường Sa…
Tư liệu từ triều nhà Hồ trở về trước đã bị mất mát, phá hoại rất nhiều vào thời giặc Minh xâm lược nước ta . Nhưng việc Lê Thánh Tông cho lập bản đồ toàn quốc gọi chung là “Hồng Đức bản đồ” vào năm Canh Tuất (1490), trong đó có cả Hoàng Sa và Trường Sa, cho thấy trước đó hai quần đảo này đã thuộc chủ quyền Đại Việt.
Trên cơ sở “Hồng Đức bản đồ”, một nho sinh họ Đỗ Bá hiệu Công Đạo đã soạn bộ sách Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư vào khoảng năm 1630 – 1653 gồm 4 quyển, trong quyển 1 có ghi: “Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, dựng đứng giữa biển” và có một bản đồ vẽ nhóm đảo thuộc Quảng Ngãi, phủ Thăng Hoa với chú thích chữ Nôm là “Bãi Cát Vàng”.

Vua Gia Long đã cắm lá cờ chủ quyền trên hải đảo biển Đông

Sau khi lên ngôi, Gia Long - vị hoàng đế đầu tiên của nhà Nguyễn tiếp tục kế thừa chính sách khai thác tài nguyên biển và bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.  Sử sách nhà Nguyễn chỉ chép vào năm Bính Tý (1816) vua Gia Long sai người ra hải đảo biển Đông. Nhưng theo nhiều tài liệu của người phương Tây, vua Gia Long không chỉ quản lý mà còn trực tiếp ra cắm cờ tại Bãi Cát Vàng. Một cố vấn người Pháp của vua là J.B.Chaigneau (tên Việt là Nguyễn Văn Thắng) trong cuốn hồi ký “ Ghi chép về xứ Cochinchie” đã viết: “Quần đảo Paracel gồm nhiều đảo nhỏ, ghềnh và mỏm đá không có dân cư. Vào năm 1816, vị Hoàng đế bấy giờ đã tiếp nhận chủ quyền trên quần đảo này”.
Giám mục Jean Louis Taberd thì cho biết rõ hơn, trong sách “ Bức tranh Thế giới -Lịch sử và mô tả các dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán của họ” xuất bản tại Paris năm 1833, có đoạn viết: “Quần đảo Paracel mà người Việt gọi là Cát Vàng gồm rất nhiều hoang đảo chằng chịt với nhau, lởm chởm những đá nhô lên… Những hoang đảo này đã được chiếm cứ bởi người Việt xưa Đàng Trong. Chúng tôi không rõ họ có thiết lập một cơ sở nào tại đó không; nhưng có điều chúng tôi biết chắc là Hoàng đế Gia Long đã chủ tâm thêm cái đóa hoa kỳ lạ đó vào vương miện của Ngài; vì vậy mà Ngài xét thấy đúng lúc phải thân chinh vượt biển để tiếp thâu quần đảo Hoàng Sa, và chính là vào năm 1816, Ngài đã long trọng treo tại đó lá cờ của xứ Đàng Trong”.
Trong bài viết đăng trên một tờ báo tiếng Anh phát hành ở Bengal (Ấn Độ) năm 1849, Giám mục Jean Louis Taberd một lần nữa nhắc lại sự kiện liên quan đến vua Gia Long: “Năm 1816, Ngài đã tới long trọng cắm cờ quốc gia của ông và chính thức giữ chủ quyền các hòn đảo này mà hình như không một ai tranh giành với ông”.

Minh Mạng - vị vua đầu tiên cho khảo sát chi tiết các đảo tại Bãi Cát Vàng
Để biết rõ hơn về các đảo thuộc Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa và Trường Sa), theo sách Đại Nam thực lục chính biên, năm Giáp Ngọ (1834) vua Minh Mạng đã sai Đội trưởng đội Hoàng Sa là Trương Phúc Sĩ dẫn 20 thủy thủ đi đo đạc kích thước, vẽ bản đồ, đo độ nông sâu, địa thế các đảo. Kể từ đó vua đã nhiều lần cho tiến hành công việc này. Những người không hoàn thành nhiệm vụ đều bị xử phạt nghiêm khắc. Như trường hợp của Giám thành Trương Viết Soái, năm Bính Thân (1836) khi về không có bản đồ đệ trình đã bị xử “trảm giam hậu” (chém nhưng tạm giam trước)…
Bên cạnh việc khai thác, tuần phòng trên biển, vua Minh Mạng còn cho tiến hành xây dựng nơi thờ tự (chùa, miếu), trồng cây, dựng cột, bia chủ quyền tại một số đảo vào các năm 1833, 1835, 1836… Việc cho quân đồn trú, tiến hành thu thuế và bảo vệ ngư dân cũng đã được thực hiện. Một người Anh tên là Gutzlaff trong bài viết đăng trên tập san “Á Châu hội” xuất bản ở Luân Đôn (London) năm 1849 cho biết: “Những đảo ấy đáng lẽ không có giá trị nếu nghề cá ở đó không phồn thịnh và không bù hết mọi nguy nan cho kẻ phiêu lưu…Tuy rằng hàng năm hơn mười phần thuyền bị đắm nhưng đánh cá được rất nhiều, đến nỗi không những bù hết mọi thiệt thòi mà còn để lại món lợi rất to. Chính phủ An Nam thấy những lợi có thể mang lại nếu một ngạch thuế đặt ra, bèn lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ ở chỗ này để thu thuế mà mọi người ngoài tới đều phải trả, và để bảo trợ những người đánh cá bản quốc”.


Khải Định tái khẳng định chủ quyền tại  quần đảo Hoàng Sa

Mặc dù chịu sự bảo hộ của Pháp, Nam triều mất quyền tự chủ, trong đó có quyền ngoại giao, nhưng về danh nghĩa vẫn là đại diện cho quốc gia nên trước các yêu sách của chính quyền Quốc dân đảng Trung Hoa và sự đề nghị cung cấp dữ kiện liên quan đến vấn đề biển Đông, ngày 3 tháng 3 năm 1925, Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề thay mặt triều đình Huế đã xác nhận chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa bằng một văn thư, trong đó có đoạn như sau: “Quần đảo Hoàng Sa luôn luôn thuộc về Việt Nam và đó là vấn đề không thể chối cãi được…”
Trong bản báo cáo ngày 22.01.1929, Khâm sứ Pháp ở Trung kỳ là Le Fol nhấn mạnh các quyền được nước An Nam khẳng định và duy trì từ lâu trong diễn biến tranh chấp các đảo trên biển Đông giữa Trung Quốc với chính quyền bảo hộ Pháp. Ông viết như sau: “Thân Trọng Huề, nguyên Thượng thư Bộ Binh, qua đời năm 1925, trong thư ngày 3 tháng 3 năm đó, đã khẳng định rằng “Các hòn đảo đó bao giờ cũng thuộc nước An Nam. Không có gì phải tranh cãi về vấn đề này”.
 
Bảo Đại, người đầu tiên thay đổi đơn vị hành chính các đảo ở biển Đông
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thường gọi chung bằng cái tên phổ biến là  Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) là một đơn vị của đất Thuận Quảng, qua thời gian được đổi tên là Quảng Nghĩa, Quảng Ngãi, Nam Ngãi. Đến đời vua Bảo Đại, việc phân tách thành hai quần đảo mới được xác lập rõ ràng hơn.
Tháng 12.1933 các đảo Trường Sa sáp nhập vào địa phận tỉnh Bà Rịa. Đến ngày 29 tháng 2 năm Mậu Dần (1938) vua Bảo Đại ra Chỉ dụ số 10 chuyển đổi hành chính đảo Hoàng Sa: “Các cù lao Hoàng Sa (Archipel des Iles Paracels) thuộc về chủ quyền nước Nam đã lâu đời và dưới các tiền triều, các cù lao ấy thuộc về địa hạt tỉnh Nam Ngãi; đến đời đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế vẫn để y như cũ là vì nguyên trước sự giao thông với các cù lao ấy đều do các cửa bể tỉnh Nam Ngãi… Nhờ sự tiến bộ trong việc hàng hải nên việc giao thông ngày nay có thay đổi, vả lại viên đại diện chính phủ Nam triều uỷ phái ra kinh lý các cù lao ấy cùng quan đại diện chính phủ bảo hộ có tâu rằng nên tháp các cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên thời được thuận tiện hơn…. Chuẩn tháp nhập các cù lao Hoàng Sa (Archipel des Iles Paracels) vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên; về phương diện hành chính các cù lao ấy thuộc dưới quyền quan Tỉnh hiến tỉnh ấy”.
Trên cơ sở đó, ngày 5.6.1938, toàn quyền Đông Dương Jules Brévié ký nghị định thành lập đơn vị hành chính tại quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên và cho dựng bia chủ quyền tại đảo Hoàng Sa.
Ghi chép của chính sử cho biết cả hai cha con vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông đều là con cầu tự.
Hai cha con vua Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông đều là con cầu tự
Theo phong tục, những gia đình nào hiếm muộn con cái thì cầu tự với nhiều cách khác nhau như nhờ thần địa lý dịch mả để tránh thế đất “tuyệt đinh”, đi lễ bái chùa miếu, đền, phủ để cầu Phật Thánh độ cho có con… Ghi chép của chính sử cho biết cả hai cha con vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông đều là con cầu tự.

Sử sách cho biết vua Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), “mẹ vua là Quang Thục Hoàng thái hậu Ngô Thị, người làng Động Bàng, huyện Yên Định, phủ Thanh Hóa. Trước kia, khi còn là Tiệp dư, Thái hậu đi cầu tự, mơ thấy thượng đế ban cho một tiên đồng, thế rồi có thai. Tục truyền rằng Thái hậu khi sắp ở cữ, nhân thử thả chợp mắt, mơ thấy mình đến chỗ Thượng đế, Thượng đế sai một tiên đồng xuống làm con Thái hậu, tiên đồng chần chừ mãi không chịu đi, thượng đế giận, lấy cái hốt ngọc đánh vào trán chảy máu ra, sau tỉnh dậy, rồi sinh ra vua, trên trán vẫn còn dấu vết lờ mờ như thấy trong giấc mơ, mãi đến khi chết, vết ấy vẫn không mất (Đại Việt sử ký toàn thư).
Còn Lê Hiến Tông sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ (1461), con trưởng của Lê Thánh Tông, vua tên thật là Lê Tranh, còn có tên khác là Lê Huy, mẹ là Trường Lạc hoàng hậu Nguyễn Thị Hằng.
Lê Thánh Tông khi mới lên ngôi vua chưa có con nối dõi nên mẹ ông là Quang Thục hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao rất lo lắng bèn “đến cầu ở am Từ Công núi Phật Tích (nay là chùa Thầy ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội -TG), chiêm bao thấy đến trước mặt Thượng đế cầu hoàng tự. Thượng đế phán: Cho sao Thiên Lộc làm con Nguyễn Thị; nói rồi cho ẵm đến ngồi ở trước. Bấy giờ Trường Lạc hoàng thái hậu ở cung Vĩnh Ninh, tức thì có mang. Đến đủ ngày tháng, chiêm bao thấy rồng vàng từ trên trời sa xuống vào trong phòng, một lát sau thì sinh ra vua…Vua sinh ra dáng vẻ thiên tử, mũi cao, mặt rồng, thần thái trang nghiêm, tươi đẹp khác thường…” ( Đại Việt sử ký toàn thư).

Trần Anh Tông lấy chậu nước ném con trai

Trần Anh Tông tên thật là Trần Thuyên, ở ngôi 21 năm thì nhường ngôi cho con là Trần Mạnh (tức Trần Minh Tông) vào tháng 3 năm Quý  Tị (1293) để lên làm Thái thượng hoàng trong 6 năm thì mất, thọ 45 tuổi. Sử sách đánh giá ông là vị vua "khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần” ( Đại Việt sử ký toàn thư).
Trần Anh Tông còn là người dạy con rất nghiêm khắc và khi nói đến con trai của ông là Trần Minh Tông, sử đánh giá rằng những điều tốt đẹp của vị vua này phần lớn là nhờ vào việc rèn dạy của cha mình. “Cái đức của Minh Tông mà nên được, tuy là do thiên tư tốt đẹp, cũng còn do sức dạy bảo của vua cha. Khi vua ở Đông cung, đang tuổi ấu thơ, có lần nghịch làm chiếc giá đèn bằng tre, Anh Tông đòi xem, sợ không dám dâng. Hôm khác, vào hầu tẩm điện, Anh Tông đang rửa mặt, nhân hỏi đến trò nghịch cũ, Anh Tông giận lắm cầm ngay cái chậu rửa mặt ném vua. Vua nấp vào cánh cửa tránh được, chậu rơi trúng cánh cửa vỡ tan. Được sự răn dạy nghiêm ngặt như vậy, cho nên tài đức của vua do đấy mà nên” ( Đại Việt sử ký toàn thư).

Lê Thái Tổ tìm con gái bị giặc Minh bắt
Trải 10 năm gian khổ “nếm mật nằm gai”, lật đổ được ách đô hộ tàn bạo của giặc Minh, thiết lập nhà Hậu Lê, một vương triều lớn trong lịch sử nước nhà, Lê Thái Tổ được coi như vị tổ Trung hưng thứ 2 của dân tộc. Thế nhưng tâm tư của Lê Thái Tổ vẫn canh cánh, nặng trĩu khi nghĩ về một người con gái của mình bị giặc Minh bắt đưa về phương bắc, ông mong tìm lại con nhưng không thể thực hiện được.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết vào ngày mồng 1 tháng 11 năm Mậu Thân (1428) “vua sai bọn Đỗ Như Hùng sang nhà Minh tâu bày rằng con cháu họ Trần quả thực không còn ai, các quan lại, quân nhân cùng khí giới bắt được của nhà Minh đã đưa trả hết rồi, không còn giam giữ, chứa giấu gì cả. Lại xin trả lại người con gái của vua bị lạc. Trước kia, trong buổi loạn ly, vua bị lạc mất người con gái nhỏ mới lên 9 tuổi. Viên nội quan nhà Minh là Mã Kỳ đem về nuôi, rồi đưa về Yên Kinh tiến làm cung tỳ. Đến đây, vua sai sứ sang xin về”. Tuy nhiên vua Minh trả lời sứ thần nước ta rằng người con gái đó đã bị chết vì bệnh đậu mùa.

Vua Minh Mạng đánh giá các con bằng thơ

Minh Mạng, vị Hoàng đế thứ 2 của nhà Nguyễn nổi tiếng là người có nhiều con với 78 hoàng tử, 64 công chúa, tổng cộng là 142 người. Tương truyền sở dĩ ông rất đông con một phần nhờ vào hai bài rượu bổ là “Nhất dạ ngũ giao” và “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” mà dân gian thường gọi chung là “Minh Mạng thang”.
Theo sách Quốc sử di biên, vào tháng 12 năm Nhâm Thìn (1832), bấy giờ vua có tròn 100 người con bèn làm thơ đánh giá tư chất của các con mình, sách viết như sau: “Năm ấy, vua 42 tuổi, có 49 con trai, 51 con gái. Vua ngâm thơ rằng: Bất hữu Chu Công, Chu Vũ thánh. Diệc vô Thúc Độ, Thúc Tiên ngu…Nghĩa là: Không có con nào thánh bằng Chu Công, Chu Vũ Vương; cũng không có con nào ngu như Thúc Độ, Thúc Tiên”.
Vua Khải Định muốn con kết thân với các đại gia
Vua Khải Định muốn con kết thân với các đại gia,  Lý Thái Tông có tôn hiệu dài kỷ lục, Lê Tương Dực từng bị hoạn quan khống chế và nhiều điều lý thú khác về các vị vua Việt Nam...
Khải Định muốn con kết thân với đại gia
Năm Nhâm Tuất (1922) trong một buổi thiết triều, vua Khải Định phán bảo thị thần, nhất là những người đi theo hầu thái tử ở Pháp cần lưu ý không để vị vua tương lai nhiễm các tư tưởng dân chủ tự do và cần tích cực kết thân, giao du với các gia đình đại gia ở Pháp.

Sách Khải Định chính yếu sơ tập cho hay Khải Định truyền rằng: “An Nam đường đường là một đế quốc, đưa Hoàng thái tử nay sang du học chính là muốn cho học hành trưởng thành để về bảo vệ, giữ gìn đế quốc đó. Vì vậy trong khi hướng dẫn mở mang kiến thức phải cẩn thận tuyệt không được để cho một chút tư tưởng dân chủ nào in hằn vào đầu óc Thái tử… Những nhà đại gia thuộc hoàng tộc hoặc quan lại truyền thống ở nước Pháp, trong gia đình của họ vẫn giữ lại những luân lý vốn có. Hoàng thái tử nay đang học tập tại nước Pháp, vào những ngày nghỉ rỗi nên giao du với những gia đình đại gia đó cho hợp với luân thường nước Nam, chứ đừng để cho Thái tử tập quen với đầu óc tư tưởng tự do thì thật khó cho sau này”.
Lý Thái Tông có tôn hiệu dài kỷ lục
Là vị vua thứ 2 của nhà Lý, trong 26 năm ở trên ngôi báu, Lý Thái Tông Là vị vua thứ 2 của nhà Lý, đã có những đóng góp tích cực tới hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng quốc gia, củng cố bộ máy nhà nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá ông “là người nhân triết thông tuệ, có đại lược văn võ, trong lục nghệ không nghề gì không tinh tường. Vì có tài đức ấy nên có thể làm mọi việc”.
Lý Thái Tông còn là vị vua có tôn hiệu dài nhất. Ngay sau khi lên ngôi, tôn hiệu của ông là: Khai thiên thống vận tôn đạo quý đức thánh văn quảng vũ sùng nhân thượng thiện chính lý dân an thần phù long hiện thể nguyên ngự cực ức tuế công cao ứng chân bảo lịch thông huyền chí áo hưng long đại định thông minh từ hiếu hoàng đế. Tất cả có 50 chữ.
Đến tháng 6 năm Kỷ Mão (1039) vua lại tăng tôn hiệu thêm 8 chữ nữa là: Kim dũng ngân sinh, Nùng bình phiên phục. Tháng 11 năm Giáp Thân (1044) ông lại tăng tôn hiệu thêm 8 chữ nữa là: Thánh đức thiên cảm, tuyên uy thánh võ. Như vậy tôn hiệu của vị vua này có tổng cộng 66 chữ. 

Lê Tương Dực từng bị hoạn quan khống chế
Lê Tương Dực tên thật là Lê Oanh, còn có tên khác là Lê Trừ; vị vua thứ 9 của nhà Lê sơ, lên ngôi năm Kỉ Tị (1509). Ông là hoàng đế thông minh, giỏi giang nhưng sau “ham chơi mà không quyết đoán, việc thổ mộc bừa bãi, nhân dân thất nghiệp, trộm cướp nổi dậy” ( Đại Việt sử ký toàn thư). Đặc biệt vua quá say đắm nữ sắc nên bị gán cho biệt danh “vua Lợn”.

Nếu như lịch sử Trung Quốc có những vương triều từng bị khuynh đảo bởi hoạn quan thì ở Việt Nam điều này hầu như không có, tuy nhiên có một chuyện ít người biết liên quan đến việc Lê Tương Dực bị bọn hoạn quan khống chế định mưu đồ phế lập ngai vàng.
Lê Tương Dực lên ngôi chưa lâu, đến cuối tháng 4 năm Canh Ngọ (1510) đã gặp ngay một biến động cung đình. Sách Đại Việt thông sử chép: “Nguyễn Khắc Hài không rõ quê quán ở đâu, được vào cung làm thái giám, hơi được vua Tương Dực thân qúy khi mới lên ngôi. Lúc đó lòng người chưa yên, Khắc Hài ngầm có chí khác.

Vào canh 3 đêm 25 tháng 4 năm Hồng Thuận thứ 2 (1510) Khắc Hài đem đồng đảng làm loạn, bắt ép vua đến cung Trùng Hoa, lại đến các điện Vạn Thọ, Cẩn Đức, Kính Thiên. Nhà vua tỏ ý muốn nhàn hạ để cho y yên chí bèn làm thơ quốc ngữ, đại thần văn võ vào hầu hoạ thơ. Đêm khuya có nội thần là Nguyễn Lĩnh rước vua ra hồ sen. Khắc Hài lẻn ra ngoài, lấy cái xe riêng của vua đi đón Hoa Khê Vương lập làm vua giả. Vua sai Thọ quận công Trịnh Hựu đem quân đuổi đến Đông Hà (tức Đông Hà  môn, một cửa ô của Thăng Long xưa, sau được gọi là ô Quan Chưởng)  bắt giết quá nửa đồng bọn của Hài, bắt được cả Hài, dư đảng của y trốn lên núi Tam Đảo, quan quân đuổi đánh dẹp được”.
Vua Kiến Phúc cho chế tạo súng theo kiểu của Mỹ
Khi nói về Kiến Phúc, thường người ta chỉ nghĩ đến thời kỳ đầy biến động của vương triều Nguyễn sau khi vua Tự Đức băng hà ngày 16 tháng 6 năm Qúy Mùi (1883) dẫn đến chuyện “tứ nguyệt tam vương” (4 tháng 3 vua).
Kiến Phúc là vị vua ở ngôi lâu nhất (hơn 5 tháng) so với các vua ở giai đoạn “tứ nguyệt tam vương” là Dục Đức (ở ngôi 3 ngày), Hiệp Hòa (gần 4 tháng). Trong thời gian cầm quyền ngắn ngủi của mình, có một việc làm đáng nhớcủa vua Kiến Phúc, đó là vào đầu tháng giêng năm Giáp Thân (1884) triều đình đã cho chế tạo thử loại súng theo kiểu của Mỹ và của Đức, đồng thời cho dệt thử các loại vải hoa, vải thô của phương Tây.
Vua đã giao cho ông Nguyễn Xuân Phiếu phụ trách việc này cùng với 3 thợ máy, 15 thợ dệt, 20 biền binh. Những người này đều được phái đi học tập, thí nghiệm. Sau khi đã thành thục đều được phong thưởng: Nguyễn Xuân Phiếu, từ chức Đốc công tòng cửu phẩm thừa phái, được thưởng chức Tư vụ; những người kia đều được thăng trật hoặc được thưởng tiền bạc.

Vua Đồng Khánh cũng có một bài thơ “Nam quốc sơn hà”
“Nam quốc sơn hà” được coi là bài thơ “thần”, là bản “tuyên ngôn độc lập” đầu tiên ra đời trong cuộc kháng chiến chống giặc Tống xâm lược thời nhà Lý. Còn bài thơ “Nam quốc sơn hà” của ông vua bù nhìn Đồng Khánh thời Pháp thuộc được viết vào tháng 2 năm Đinh Hợi (1887) có nội dung thể hiện lo lắng trước thời cuộc, nhắc nhở quan lại phải hoàn thành chức phận. Nội dung của bài thơ gồm 20 khổ 80 câu thơ còn dành phần lớn để ca ngợi công lao sáng nghiệp của vua Gia Long, công tích của triều Nguyễn với dân chúng và chỉ trích các đại thần Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường phế lập ngôi vua, gây hấn với Pháp nên khiến đất nước binh họa binh đao, các cuộc nổi dậy “phản loạn” khiến cho triều đình và quân Pháp phải cùng hợp sức đánh dẹp “bọn ngông cuồng”. Bài thơ còn có đoạn nói rằng vì có ơn đức thấm lòng dân, được Pháp giúp đỡ mà Đồng Khánh được làm vua…
Bài thơ của vua Đồng Khánh được mở đầu bằng hai câu: “Nam quốc sơn hà Nam đế đô/Thần truyền thánh kế tráng hoàng đồ” (Sông núi nước Nam vua Nam trị/Thần truyền Thánh nối rộng cơ đồ).

Bên cạnh công việc quốc gia đại sự, chốn hậu cung của các vị vua Việt Nam cũng là cả một thế giới của những điều bí ẩn, lạ kỳ.
Người phụ nữ 3 lần từ chối làm vợ vua Lê Đại Hành
Với nhiều người, trở thành vợ vua là một may mắn tột đỉnh, thế nhưng có một người phụ nữ đã 3 lần từ chối vào cung làm vợ vua Lê Đại Hành, đó là bà Phạm Thị Hến, quê ở làng Tó (làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay).
Vua Lê Đại Hành gặp bà vào năm Tân Tị (981) trong lần cùng một cánh quân vận chuyển lương và vũ khí lên phía bắc để chống quân Tống xâm lược. Thấy bà nhanh nhẹn, thông minh, giỏi võ, lại tình nguyện tham gia đánh giặc nên vua giao đảm nhận việc trông coi, vận chuyển lương thực, khí giới cho quân đội.
Không lâu sau, quân Tống đại bại, bà Phạm Thị Hến xin về quê chịu tang cha, hết kỳ hạn 3 năm, Lê Đại Hành cho người rước bà nhập cung nhưng cả 3 lần, bà đều từ chối, cuối cùng vua phải đích thân về làng Tó và chấp thuận 3 điều kiện là: Làm lễ lớn tế cha bà 3 ngày trước khi đón dâu; lễ cưới phải tổ chức ngay tại làng Tó; địa vị của bà phải ngang hàng với 4 bà hoàng hậu của vua.

Cũng vì quá yêu người đẹp, mến tài lẫn sắc nên Lê Đại Hành chấp thuận cả 3 điều kiện. Bà Phạm Thị Hến được phong làm Phạm hoàng hậu, người dân thường gọi bà là bà Chúa Hến. Thế nhưng, nhiều năm ở bên vua mà bà không sinh được mụn con nào, buồn tủi bà xin về quê sinh sống và mất tại đó khi mới 37 tuổi.
Nơi thờ bà ngày nay vẫn còn, đó là đình làng Hoa Xá. Điều thú vị là ngôi đình được dựng trên chính nền cũ ngôi nhà kết hoa (Hoa Xá), nơi diễn ra đêm tân hôn giữa vị hoàng đế anh hùng và cô thôn nữ làng Tó năm nào; tên làng cũng vì thế còn được gọi là làng Hoa Xá.

Trần Nhân Tông được vợ che chở trước hổ dữ

Hoàng hậu của vua Trần Nhân Tông tên húy là Trinh, con gái lớn của danh tướng Trần Hưng Đạo, khi chưa vào cung, bà có tước vị là Quyên Thanh công chúa. Sau khi trở thành vợ vua, bà được phong làm Bảo Thánh hoàng hậu. Tháng 3 năm Quý Tỵ (1293), con trai bà là Anh Tông lên ngôi đã tiến phong mẹ mình là Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng thái hậu.
Các sách như Đại Việt sử ký toàn thư còn cho biết có lần Trần Nhân Tông đã được bà che chở trước hổ dữ: “Thái hậu nhu mì đức tốt, thông minh sáng suốt, nhân hậu với kẻ dưới. Thượng hoàng thường làm chuồng hổ ở thềm Vọng Lâu rồi sai quân sĩ đánh nhau với hổ.
Có lần Thượng hoàng ngồi xem, thái hậu và phi tần đều theo hầu. Vì thềm lầu thấp, song chuồng và thềm cũng thấp, con hổ bỗng nhảy ra khỏi chuồng leo lên lầu, mọi người đều sợ chạy  tan cả, duy chỉ còn có Thái hậu và bốn, năm người thị nữ vẫn ở đấy. Thái hậu nghĩ bụng không khỏi bị hại, mới lấy chiếu che cho Thượng hoàng và cả mình. Con hổ lên lầu kêu gầm lên rồi vội vàng nhảy xuống, không vồ hại ai cả.
Lại một lần Thượng hoàng ngự điện Thiên An xem đấu voi ở Long Trì, con voi bỗng xông vào định lên trên điện, người hầu hai bên đều chạy tản chỉ còn mình Thái hậu vẫn ở đấy”.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nhà Hậu Lê bàn rằng: “Voi và hổ là bậc hung dữ, ai cũng phải sợ, thế mà lúc voi, hổ hung tợn làm ngang, Hoàng hậu vẫn thản nhiên không sợ. Hoàng hậu thực sự là một anh hùng trong đám nữ lưu vậy” (Đại Việt sử ký tiền biên).



Lê Thánh Tông lấy một cô gái gánh nước làm vợ
Vị Hoàng đế đa tài và cũng rất đa tình Lê Thánh Tông có rất nhiều giai thoại được truyền tụng trong dân gian, trong số đó có cả những chuyện thú vị giữa vua và các giai nhân. Không rõ có bao nhiêu điều trong đó là sự thật, bao nhiêu điều là do thêu dệt mà nên, nhưng theo danh sách những người vợ chính của vua Lê Thánh Tông mà cuốn Đại Việt thông sử ghi chép thì tất cả các bà đều là con gái các quan tướng trong triều, duy nhất có một người xuất thân bình dân và bà trở thành vợ vua cũng rất tình cờ.
Người vợ này của vua Lê Thánh Tông họ Nguyễn (không rõ tên), sách Đại Việt thông sử cho biết về duyên kỳ ngộ giữa hai người như sau: “Bà là người xã Hòa Thược, huyện Kim Trà. Khi vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành dừng lại ở xã này, thấy bà gánh nước qua, có nhan sắc, vua đem lòng yêu bèn cho vào cung, được nhà vua quý mến. Lần lần phong đến bậc phi, về sau sinh ra Triệu Vương”.
Theo chính sử thì năm Kỷ Sửu (1469), Lê Thánh Tông đích thân dẫn quân đi chinh phạt Chiêm Thành, như vậy người con gái huyện Kim Trà (nay là Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế) đã được vua lấy làm vợ trong thời gian này. Kết quả mối tình giữa hai người là một hoàng tử tên là Lê Thoan, được phong tước Triệu Vương, ông là con trai thứ 13 của Lê Thánh Tông.

Vợ Minh Mạng là con gái một danh tướng Tây Sơn

Sau khi nhà Nguyễn thành lập, các vụ trả thù những người có cảm tình với triều Tây Sơn diễn ra khốc liệt và kéo dài nhiều năm. Ấy vậy mà một danh tướng Tây Sơn lại trở thành bố vợ một vị vua nhà Nguyễn thì thật là lạ kỳ.
Vị vua đó là Minh Mạng, hoàng đế thứ 2 của triều Nguyễn và ông bố vợ của vua chính là tướng Ngô Văn Sở. Theo một số tư liệu thì Ngô Văn Sở bị giết năm Ất Mão (1795) trong cuộc tranh chấp nội bộ giữa các quan tướng Tây Sơn thời vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản). Nhưng có nguồn tư liệu cho hay thực ra Ngô Văn Sở không chết, ông thấy triều chính Tây Sơn ngả nghiêng nên bí mật bỏ trốn theo Nguyễn Ánh và mang một tên khác.
Khi vua Gia Long (Nguyễn Ánh) tiến hành hàng loạt vụ trả thù nhà Tây Sơn đã phát hiện ra Ngô Văn Sở chính là viên tướng nổi danh một thời của Tây Sơn. Sách Liệt truyện cho biết Gia Long không giết Ngô Văn Sở mà chỉ cách chức Quản đạo trấn Thanh Hoa của ông vì “Sở làm việc lâu ở đó lại giỏi nên được tha tội chết”. Lý do nữa là Ngô Văn Sở lại là cha của bà Ngô Thị Chính, vợ hoàng tử Phúc Đảm (sau này lên ngôi lấy hiệu là Minh Mạng).
Trong số hàng trăm phi tần, vua Minh Mạng chỉ sủng ái bà Hiền phi Ngô Thị Chính và và Lệ tân Nguyễn Gia Thị. Bà Ngô Thị Chính đã sinh cho vua 5 hoàng tử và 4 công chúa. Sự sủng ái của vua đối với bà còn thể hiện qua việc Minh Mạng phục chức cho nhạc phụ của mình là Ngô Văn Sở và phong cho em trai bà Hiền phi là Ngô Văn Thắng chức Cai đội.

Vua Đồng Khánh trừng phạt các bà vợ

Giống như bao vị hoàng đế khác, trong nội cung của vua Đồng Khánh có rất nhiều cung tần, mỹ nữ. Tháng 8 năm Ất Dậu (1885) ngay sau khi lên ngôi, Đồng Khánh đã ban dụ phong tước cho những người vợ của mình theo các bậc khác nhau là phi, tần, tiệp dư, quý nhân, mỹ nhân, tài nhân… chia nhau phụ trách, cai quản công việc ở tam cung, lục viện và vua căn dặn rằng: “Những người trên phải kính cẩn thực thi nội chức để việc trong nội cung được nghiêm chỉnh. Người xưa từng nói, phải tề gia rồi sau mới trị quốc, đó là điều trẫm vô cùng mong mỏi vậy”.
Thế nhưng chỉ hai năm sau, vào tháng 2 năm Đinh Hợi (1887) Đồng Khánh đã ban dụ nêu tội trạng và biện pháp trừng phạt đối với các bà vợ của mình. Sách Đồng Khánh chính yếu cho biết vua bực tức nói rằng: “Đặt ra chức vị phi, tần để chia nhau cai quản lục viện và kính cẩn cần mẫn, tiết kiệm cái ăn cái mặc hàng ngày, ngoài việc đó ra không có gì khác gọi là báo đáp… Nào ngờ bọn sâu mọt đó cam tâm vứt bỏ ân huệ, mỗi ngày một thêm lười biếng,… Vì vậy không thể không nghiêm khắc, tùy theo hạnh kiểm của từng người mà phân biệt nghị xử cho nghiêm nội cung”.
Kết quả là vợ chính của vua là Hoàng quý phi do cai quản không tốt hậu cung nên bị nhắc nhở nghiêm khắc, Giai phi vì sớm biết hối lỗi nên được tha. Còn lại các phi tần khác, người thì bị vua đánh giá có cử chỉ thô tục, người bị coi là ham chơi bời lêu lổng, người thì bị quy kết có tính tham lam, đố kị… nên đều bị giáng cấp. Trong bài dụ của mình vua còn răn rằng: “Nếu vẫn giữ thói ấy thì mệnh lệnh đã đưa ra pháp luật sẽ tuân theo mà thi hành, lúc ấy khó bảo toàn được vị thứ” (Đồng Khánh chính yếu).
Diện mạo, phong thái và kiến thức của Lê Hiến Tông trong cuộc gặp các sứ thần nhà Minh đã khiến họ kinh ngạc, khâm phục và hết lời khen ngợi.
Lê Hiến Tông được sứ thần phương Bắc khen “nức nở”
Trong lịch sử bang giao thời phong kiến ở nước ta, chưa có vị vua nào lại được sứ thần phương Bắc mến mộ, khen ngợi nhiều như Lê Hiến Tông, vị hoàng đế thứ 6 của nhà Hậu Lê.

Tháng 12 năm Kỷ Mùi (1499) nhà Minh sai hai đoàn sứ, đoàn thứ nhất do Từ Ngọc dẫn đầu sang làm lễ viếng Lê Thánh Tông và đoàn sứ thứ hai do Lương Chừ, Vương Chẩn mang sắc phong cho vua Lê Hiến Tông.

Diện mạo, phong thái và kiến thức của Lê Hiến Tông trong cuộc gặp các sứ thần nhà Minh đã khiến họ kinh ngạc, khâm phục và hết lời khen ngợi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết như sau: “Ngày 23, bọn Lương Trừ, Vương Chẩn, Từ Ngọc đều tới trạm Thị Cầu. Hôm ấy, vua sai bọn Đông các đại học sĩ Đàm Văn Lễ, học sĩ Nguyễn Nhân Thiếp, Bùi Nhân tới trạm Thị Cầu cùng với bọn Lương Trừ bàn việc làm lễ. Ngày 24, Từ Ngọc đi từ Thị Cầu đến trạm Lữ Khôi, vua ngự thuyền Tiểu Quang đến trạm đón tiếp. Khi vua trở về cung, Trừ ra ngoài cửa trạm đưa tiễn, bảo Bùi Nhân rằng: "Hôm nay được thấy quốc vương tuổi đã lớn, thực là tướng thánh nhân, thực là tướng trường thọ, quả là phúc lớn của sinh linh phương Nam. Sao mà học rộng và ứng tiếp mọi việc nhanh chóng, mẫn tiệp đến thế!". Rồi cứ trầm trồ khen ngợi mãi không thôi”.

Đinh Tiên Hoàng là hoàng đế đầu tiên phong chức quan cho phái nữ

Dưới chế độ phong kiến vai trò của phụ nữ không được coi trọng đúng mức, tuy nhiên có một số người bằng khả năng, tài trí của mình đã trở thành quan chức trong triều đình. Và Đinh Tiên Hoàng là hoàng đế đấu tiên phong chức quan cho một phụ nữ - bà Phạm Thị Trân.

Theo sách “Đả cố lục”, bà Phạm Thị Trân (926 – 976) có hiệu Huyền Nữ, quê ở đất Hồng Châu (nay thuộc tỉnh Hải Dương), là người phụ nữ nhan sắc, lại có tài múa hát nên được viên quan địa phương tiến cử với triều đình Hoa Lư. Vua Đinh Tiên Hoàng thấy bà có tài bèn phong cho chức Ưu Bà với nhiệm vụ dạy cho cung nữ và quân lính múa hát, đánh trống, gảy đàn, diễn các tích trò (gọi là hát trò nhời, ngày nay gọi là hát chèo) vì thế sau này bà được tôn là bà tổ của nghệ thuật hát chèo.
Việc phong chức quan cho một phụ nữ xuất thân bình dân không chỉ cho thấy sự coi trọng của Đinh Tiên Hoàng với phái đẹp mà còn thể hiện sự thông minh của vua khi biết sử dụng nghệ thuật ca hát, diễn xướng phục vụ tinh thần quân đội. Vì ngoài mục đích giải trí, các hoạt động đó đã cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân sĩ rất hiệu quả.
Đặc biệt với chủ trương của vua, bà Phạm Thị Trân đã sáng tạo ra phép đánh trống rất hào hùng, mạnh mẽ vừa dùng khi biểu diễn, vừa dùng trong chiến trận mà đến nay vẫn còn lưu truyền, như tiếng trống rước: “ Chinh tùng chinh, chinh tùng chinh, bất diệt thù hề, bất nguyện sinh” (Đi chiến đấu, đi chiến đấu, không diệt được thù không thèm sống) hoặc tiếng trống chèo: “Nam chinh sát Bắc tướng, diệt Bắc tướng. Nam thiên sinh vương, Nam thiên sinh vương thánh, thánh Đinh vương xưng đế” (Quân Nam giết tướng Bắc. Trời Nam sinh vương, trời Nam sinh vương thánh, thánh Đinh vương xưng đế).

Vua Khải Định từng muốn theo quy chế “ngày làm việc 8 giờ”
Từ khi lên ngôi và trong suốt thời gian cai trị của mình từ năm 1916 đến 1925, vua Khải Định đã ban bố nhiều chiếu dụ với nội dung học theo phương Tây một số quy tắc, chế định trong đó có quy chế “ngày làm việc 8 giờ”, tuy nhiên việc đó cũng chỉ ở mức tương đối.
Sách Khải Định chính yếu sơ tập cho biết vào tháng 9 năm Nhâm Tuất (1922), trong một buổi thiết triều, vua nói với quần thần rằng: “Trẫm quan sát thấy người Tây làm việc mỗi ngày tổng cộng 8 giờ đồng hồ. Quan lại nước ta tất nhiên chẳng theo được như thế, nhưng mỗi ngày cũng nên ngồi ở công sở cho được 6 giờ đồng hồ để làm công vụ, dẫu không có việc gì cũng nên giữ như thế cho thành thói quen, cũng giống như đứa trẻ tập đi, cứ bước đi nhiều thì lâu dần mới trở thành tự nhiên. Như bản thân trẫm xử lý công việc chẳng lúc nào nhàn rỗi; giả như công việc đã vãn thì không xem phiến chương cũng lôi sách vở ra đọc, không đọc sách vở thì lại xem xét các máy móc. Tóm lại là không bao giờ để thời gian trôi suông một cách lãng phí”.

Vua đem vợ thưởng cho bề tôi

Câu chuyện khó tin này liên quan đến hai nhân vật nổi tiếng trong lịch sử nước ta, đó là Lý Chiêu Hoàng, vị vua cuối cùng của nhà Lý và Trần Thái Tông, hoàng đế đầu tiên của triều Trần.
Bằng âm mưu và sự khéo léo của mình, Trần Thủ Độ đã tạo ra cuộc hôn nhân giữa cháu mình và nữ hoàng, sau đó là chuyện Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào tháng 12 năm Ất Dậu (1225). Khi lên ngôi, đầu năm Bính Tuất (1226) Trần Cảnh (tức Trần Thái Tông) sách phong Chiêu Hoàng làm hoàng hậu Chiêu Thánh nhưng đến tháng giêng năm Đinh Dậu (1237) Hoàng hậu Chiêu Thánh bị phế làm công chúa vì lý do “không có con”. Chị của Chiêu Thánh là công chúa Thuận Thiên, vợ của Hoài Vương Trần Liễu (anh trai Trần Thái Tông) khi đó có thai 3 tháng được lập làm hoàng hậu Thuận Thiên:

“Lập công chúa Thuận Thiên họ Lý, là vợ của Hoài Vương Liễu, anh vua, làm hoàng hậu Thuận Thiên. Giáng Chiêu Thánh làm công chúa” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Chiêu Thánh sống trong cô đơn buồn tủi tới 20 năm. Đến đầu năm Mậu Ngọ (1258), sau chiến thắng chống Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất, Trần Thái Tông xuống chiếu gả vợ cũ của mình cho Lê Tần (tức Lê Phụ Trần), một vị tướng có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc vừa qua. Vậy là người vợ bị ruồng bỏ lại trở thành “phần thưởng” mà người chồng ban cho bề tôi của mình.
Hành động này về sau bị sử sách phê phán gay gắt: “Vua tôi nhà Trần coi thường đạo vợ chồng lại thấy ở đây lần nữa. ( Đại Việt sử ký toàn thư). Còn sách Việt sử tiêu án viết rằng: “Vua Thái Tông làm hại nhân luân, lấy bà Thuận Thiên, Phụ Trần cũng thông gian với bà Chiêu Thánh, mình cướp vợ anh, thì người khác lại cướp vợ mình; tuy là tự ý đem cho, nhưng cũng là trời làm cho tâm thần tối tăm mà làm việc càn bậy đó, tạo hóa khéo thật”…

Mạc Kính Chỉ bị vợ “cắm sừng”

Mạc Kính Chỉ là vị vua đầu tiên của nhà Mạc thời suy vong. Ông là con của hoàng thân Mạc Kính Điển và là cháu nội của vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải). Tháng 12 năm Nhâm Thìn (1592) khi nghe tin vua Mạc Mậu Hợp bị quân nhà Lê bắt được và giết chết, ông liền tự xưng đế ở đất Nam Giản (nay thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương) và lấy niên hiệu là Bảo Định. Làm vua chưa đầy 2 tháng thì Mạc Kính Chỉ bị bắt ở huyện Hoành Bồ, xứ An Quảng (Quảng Ninh ngày nay) khi vừa mới đổi niên hiệu là Khang Hựu được ít ngày.
Ngoài “kỷ lục” là vị vua Mạc ở ngôi ngắn nhất thì điều hay được nhắc đến khi nói về Mạc Kính Chỉ là hai câu chuyện đáng xấu hổ của ông khi còn là một hoàng thân.
Thứ nhất đó là chuyện Mạc Kính Chỉ “loạn luân” với vợ của cha mình, sách Đại Việt thông sử viết: “Mạc Kính Chỉ là con cả của Kính Điển, mới đầu được phong là Hùng Lễ Vương, vì tư thông với người thiếp của cha nên bị giáng xuống làm thứ dân, sau đó lại khôi phục, phong là Đường An Vương”.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư thì cho biết sự việc này xảy ra vào đầu năm Giáp Tý (1564) nhưng chép khác một số điểm: “Bấy giờ con trưởng của Kính Điển là Đoan Hùng Vương Kính Chỉ ngầm tư thông với vỡ lẽ Kính Điển, việc phát giác phải giáng làm thứ dân; lấy con thứ là Kính Phu làm Đường An Vương, giao cho binh quyền. Đến khi Kính Điển chết, họ Mạc lại cho Kính Chỉ làm Hùng Lễ Công nhưng không cho binh quyền”.

Chuyện thứ hai và việc Mạc Kính Chỉ bị vợ “cắm sừng” vào đầu năm Canh Dần (1590): “Nhà Trung Nghĩa tướng quân Hoằng quận công của Mạc chúa chứa giấu phu nhân của Đường An Vương là Mạc Kính Chỉ, việc phát giác, Hoằng quận công và phu nhân đều bị giết” ( Đại Việt sử ký toàn thư). Sách Lê triều thông sử cho biết rõ hơn: “Vợ của ngụy Đường An Vương Mạc Kính Chỉ tư thông với viên tướng dưới trướng là Hoằng quận công rồi ẩn trốn tại nhà quận công, việc vỡ lở, đều bị giết”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét